Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 43

Chủ giảng: Lão pháp Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Giảo duyệt: Huệ Trang Đức Phong

 

Tập 85

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Lượng Thọ Kinh Giải, trang chín mươi bốn, dòng thứ tư, xem từ câu thứ hai:

      Tại bổn kinh trung, thử xứ Phật tự, tức chỉ đại ân từ phụ, Bổn Thích Ca Mâu Ni Phật (trong kinh này, chữ Phật đây chỉ đức đại ân từ phụ Bổn Thích Ca Mâu Ni Phật). Ngày hôm nay các đồng học mới đến tham dự, duyên phận thù thắng khôn sánh, do vậy, đây, tôi phải giới thiệu Bổn Thích Ca Mâu Ni Phật. Trong phần trước, đã giới thiệu ý nghĩa bao hàm trong một chữ Phật này. Đối với sáu thứ thành tựu được nói trong kinh này: Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại Vương thành (ta nghe như thế này, một thời, đức Phật ngự tại thành Vương Xá), Phật Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài Thuyết Pháp Chủ trong hội này. Nói theo cách bây giờ, trong khóa giảng này, Ngài chủ giảng”; do vậy, vị này cùng quan trọng. Đại ân từ phụ [từ ngữ do] người đời sau tán thán ân đức thầy. Nếu chẳng Phật Thích Ca giáo huấn, thể nói chúng ta chắc chắn phải trải qua bao kiếp dài lâu, thời gian rất dài, dùng kiếp làm đơn vị, luân hồi trong lục đạo! Luân hồi trong lục đạo chắc chắn khổ chẳng thể nói nổi. Phải biết lục đạo sự thật, chúng tôi giới thiệu Bổn bèn bàn tới [chuyện này]. Người học đạo trước hết phải nhận biết Thích Ca Mâu Ni Phật. Nếu quý vị chẳng nhận biết Ngài, sẽ đi theo rất nhiều đường vòng. Nếu quý vị nhận biết Ngài, sẽ đỡ phải đi theo rất nhiều đường vòng, thật sự đạt được lợi ích từ sự giáo dục của Phật Đà. Do vậy, chúng ta gọi Phật Đà Thích Ca Mâu Ni Phật, Phật Đà danh xưng học vị trong nền giáo dục của đức Phật. Chúng tôi nói theo cách bây giờ học vịcho mọi người dễ hiểu. Giống như trong hiện thời, nhà trường ba loại học vị, cao nhất Tiến Sĩ, kế đó Thạc Sĩ, kém hơn nữa Học Sĩ. Trong giáo dục nhà Phật cũng ba học vị, cao nhất gọi Phật Đà, tương đương Tiến Sĩ, thứ hai Bồ Tát, tương đương Thạc Sĩ, thứ ba A La Hán, tương đương Học Sĩ (Cử Nhân). Do vậy, chư vị nhất định phải biết: Phật, Bồ Tát, La Hán người, chẳng phải thần, cũng không phải tiên, đấy những danh xưng rất thông thường, nhất định phải hiểu điều này!

      Phật thầy, Bồ Tát A La Hán đều học trò, đều học trò của thầy, bất quá, họ đã đạt được học vị. Nay chúng ta học Phật vẫn chưa đạt được học vị; tuy chưa đạt được học vị, nhưng quan hệ giữa chúng ta họ (Bồ Tát, A La Hán) bạn học lớp trước lớp sau. thế, Bồ Tát bạn học lớp đàn anh của chúng ta, A La Hán cũng bạn học lớp đàn anh. Hiểu ràng, minh bạch quan hệ này, cùng một chỗ với các học trò đàn anh sẽ thuận tiện hơn, chứ cùng một chỗ với Phật ắt sẽ nghiêm túc, đối với thầy do tôn trọng đạo, nên trước Phật, chúng ta ắt sẽ cung kính, còn đối với Bồ Tát sẽ thể thoải mái hơn một chút. Do vậy, phải hiểu những danh xưng này, chớ nên hồ. Danh tự Thích Ca Mâu Ni Phật cũng biểu thị pháp; do vậy, thật ra, [danh xưng] Phật Đà giống như danh xưngthánh nhântại Trung Quốc. Người Trung Quốc nói thánh nhân, hiền nhân, quân tử. Quý vị thấy trong truyền thống văn hóa Trung Quốc cũng ba học vị, chúng ta gọi Khổng phu tử thánh nhân, học trò của Khổng Tử được gọi hiền nhân. Thánh nhân tương đương với Phật Đà như người Ấn Độ đã nói, ý nghĩa cùng gần gũi. Quý vị thấy trong phần trước, chúng tôi đã nói Phật nghĩa giác ngộ, trí huệ, đại triệt đại ngộ thì gọi Phật. Thánh của Trung Quốc thì sao? Thánh hiểu cội gốc. Thánh nhân gì? Người hiểu rõ. Đối với phàm phu chúng ta nói, chúng ta kẻ hồ đồ, chẳng hiểu rõ. Người hiểu rõ, thông đạt đạo sự tướng trụ, nhân sinh, người như vậy được gọi thánh nhân. Học theo thánh nhân, nhưng chưa đạt tới tiêu chuẩn thánh nhân thì gọi hiền nhân. Học trò của Khổng Tử được gọi hiền nhân, hiền nhân tương đương với Bồ Tát trong Phật pháp. Hiện thời, tuy nói Phật giáo rất hưng thịnh, mọi người quý vị nói Phật giáo rất hưng thịnh, nhưng tôi nói: Theo cái nhìn của tôi, Phật pháp hiện thời suy vi đến cùng cực, sao? Mọi người tín, sùng bái Phật, Bồ Tát, A La Hán như thần tiên. Các Ngài chẳng dính líu đến thần tiên, thần tiên vẫn phàm phu, chẳng khác chúng ta cho mấy! Rất nhiều thần tiên cũng học Phật, hễ học Phật thì đồng học với chúng ta, họ chưa chứng A La Hán; thế, họ chẳng phải La Hán, cũng chẳng phải Bồ Tát, phải hiểu ràng, minh bạch điều này!

      Chúng ta nói danh hiệu của Phật tông chỉ giáo học của Ngài trong thế gian này. Ở nơi này, Ngài dạy điều ? Danh hiệu chính điều Ngài dạy. Quý vị nói Phật giáo dạy điều gì? Thích Ca Mâu Ni. Thích Ca (Śākya) nghĩa gì? Nghĩa nhân từ, [danh hiệu Thích Ca Mâu Ni] dịch ra Năng Nhân, Ngài lòng nhân từ. Trên thực tế, trong sự đối đãi của chúng ta trong hội hiện thời, chúng sanh trong hội thiếu khuyết lòng nhân từ, thiếu lòng yêu thương. Không chỉ chẳng yêu thương người khác, ngay cả chính mình cũng chẳng yêu thương! thế, yêu thương người khác chẳng dễ dàng, phải yêu thương chính mình thì mới thể yêu thương người khác. Ngay đối với chính mình cũng chẳng yêu thương thì làm sao yêu thương người khác? thế, đức Phật giáo học trên thế gian này nhằm dạy điều gì? Dạy nhân từ. Thích Ca nghĩa nhân từ, dạy dỗ chúng ta đối đãi người khác phải lòng yêu thương, phải tâm từ bi, đại từ đại bi đối đãi hết thảy chúng sanh, Ngài dạy điều này. Đấy nội dung giáo học của Phật pháp. Đối với chính mình thì sao? Đối với chính mình Mâu Ni. Những từ ngữ này đều tiếng Ấn Độ, tức tiếng Ấn Độ thời cổ, Mâu Ni (Muni) nghĩa gì? Từthanh tịnh, bình đẳng, giáctrong tựa đề kinh này, Mâu Ni tịch tĩnh, tôi dùng năm chữ trong tựa đề kinh này để giảng [từ ngữ Mâu Ni], quý vị sẽ thấy rất dễ hiểu. Mâu Ni tâm địa thanh tịnh, bình đẳng, giác chứ không mê; đấy ý nghĩa của Mâu Ni, quý vị thấy danh hiệu này thật hay. Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta điều gì? Dạy bản thân chúng ta phải thanh tịnh, bình đẳng, giác, dạy chúng ta phải đại từ đại bi đối đãi hết thảy chúng sanh, đấy sự giáo dục của Phật Đà, dạy điều gì? Dạy những điều ấy! thế, tông chỉ giáo học được nêu bày trong danh hiệu; đấy chẳng phải tên vốn sẵn của Ngài, cái tên ngoài đời của Ngài Tất Đạt Đa (Siddhārtha).

      Do vậy, danh hiệu của Phật, Bồ Tát đều tông chỉ giáo học và các môn học của các Ngài. Quý vị nhìn vào danh hiệu bèn biết Ngài dạy khóa trình nào, danh hiệu chính tổng khóa trình; tức trong những điều được dạy bởi Phật pháp, lượng biên khoa mục, nhưng [những khoa mục ấy] đều chẳng rời khỏi tông chỉ này, khẳng định môn nào cũng đều tương ứng với thanh tịnh, bình đẳng, giác, đại từ, đại bi. Hễ rời khỏi những điều ấy sẽ chẳng phải Phật giáo, đức Phật chẳng dạy quý vị như vậy! thế, quý vị thấy: Do chúng ta không nhận biết Phật, hiểu lệch lạc, nên nay chúng ta đến chùa cầu xin Phật, Bồ Tát hòng thăng quan phát tài, cầu Phật, Bồ Tát phù hộ, đó tín, điên đảo! Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế chẳng chuyện ấy. Thuở lão nhân gia tại thế, chiếu theo lịch sử Trung Quốc ghi chép, sau khi đức Phật diệt độ, từ khi Phật nhập diệt đến nay, theo như lịch sử Trung Quốc ghi chép ba ngàn không trăm ba mươi bảy năm. Theo lịch sử Trung Quốc ghi chép, đức Phật giáng sanh vào năm thứ hai mươi bốn đời Châu Chiêu Vương, nhập diệt vào năm thứ năm mươi ba đời Châu Mục Vương, người Hoa nói đức Phật thọ mạng tám mươi năm, người ngoại quốc nói theo tuổi thật sự, [nên nói] đức Phật thọ bảy mươi chín tuổi. Đúng bảy mươi chín tuổi người Trung Quốc dùng tuế (tuổi ta), [nên nói đức] Phật khuất bóng khi Ngài tám mươi tuổi. Chúng ta đọc kinh điển thấy Ngài xuất thân vương tử, cha Ngài quốc vương nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatsu) thuở ấy. Nước Ca Tỳ La Vệ hiện thời Ni Bạc Nhĩ (Nepal), phía Nam núi Hỷ Lạp Nhã (Himalaya), nước ấy chẳng lớn, một tiểu quốc. trong thuở ấy, [Ấn Độ] giống như Trung Quốc vào thời nhà Châu. Dưới triều Châu, [Trung Quốc] chưa thống nhất, cho nên gọi [thời kỳ] chư hầu, nước ấy một nước chư hầu. Cũng thể nói thông tục, [quốc vương Ca Tỳ La Vệ] trưởng một bộ lạc, gọi như vậy cho mọi người dễ hiểu hơn, [vua Tịnh Phạn] quốc vương một tiểu quốc, người đứng đầu một bộ lạc. vậy, đức Phật xuất thân vương tử, bản thân Ngài quý tộc, tuổi trẻ, hiếu học. Quý vị thấy Ngài thân phận như vậy, tuổi trẻ, hiếu học. Từ nhỏ, Ngài tâm địa cùng từ bi, thấy những chúng sanh khổ nạn, bèn sanh lòng thương xót, làm thế nào để giúp họ thể sống cuộc đời hạnh phúc mỹ mãn? Trông thấy sanh, lão, bệnh, tử, Ngài dấy lên ý niệm xuất thế. Do thuở đó, tại Ấn Độ rất nhiều tôn giáo, Ngài rất ngưỡng mộ cuộc sống của những người tu hành theo tôn giáo. thế, năm mười chín tuổi, Ngài rời khỏi gia đình, Phật môn chúng ta nói đi tham học, hoặc cũng nói tìm thầy, hỏi đạo.

Thời đại của đức Phật sớm hơn Khổng Tử một chút. Tại Ấn Độ, quả thật [thời đại ấy] thời đại văn hóa hoàng kim. Trong mỗi tôn giáo, Ấn Độ cũng một quốc gia tôn giáo triết học, những tôn giáo các học phái một điểm rất đặc thù người Trung Quốc không có, đó tu Thiền Định. Quý vị phải biết Tứ Thiền, Bát Định được nói trong kinh Phật chẳng phải Phật giáo. Tứ Thiền, Bát Định La Môn giáo, cũng Hưng Đô giáo (Hinduism) hiện thời, cũng người gọi Bà La Môn giáo Ấn Độ giáo. Lầu ba phía dưới chúng ta Ấn Độ giáo. Đối với lịch sử của bọn họ, do tôi qua lại với họ, những trưởng lão của họ bảo tôi: Tôn giáo của họ phải lịch sử lâu hơn một vạn năm. Tôi tin tưởng điều đó, Ấn Độ giáo không coi trọng lịch sử, chú trọng tu hành. sao không coi trọng lịch sử? Thời gian không gian giả, chẳng thật! Đã chẳng thật, cớ cứ phải chấp trước nó? Đó do sao họ không xem trọng lịch sử, coi trọng Thiền Định. Người đang trong Thiền Định thể đột phá các chiều không gian, khoa học gia biết điều này. Các khoa học gia cận đại đã thật sự chứng thực những chiều không gian khác nhau trong thế gian này. Nói theo luận, các chiều không gian khác nhau không ngằn mé, chẳng biết bao nhiêu [chiều không gian khác nhau]. Khoa học gia đã thật sự chứng minh, mọi người thừa nhận chứng minh ấy xác thực, tối thiểu mười một chiều không gian khác nhau. Lão Hoàng Niệm Tổ bảo chúng tôi chuyện này, cụ học khoa học, học tuyến điện, trong đại học dạy những khoa mục ấy, Ngài cho tôi biết một số kiến thức thuộc về phương diện khoa học tương ứng với Phật pháp.

      Chúng tôi học Phật đã nhiều năm như thế, thấu hiểu ít nhiều về vấn đề chiều không gian, chiều không gian do đâu có? Do phân biệt, chấp trước có. Chư vị hãy nghĩ xem, mỗi nhân chúng ta bao nhiêu phân biệt, chấp trước? Khởi tâm động niệm đều phân biệt, chấp trước, nên tạo thành các không gian chiều khác nhau. Huống chi trên thế giới này, người lại đông ngần ấy, mỗi nhân đều khởi tâm động niệm, cho nên chiều không gian cũng rất phức tạp, đúng chẳng cách nào [để nhận biết], chẳng số lượng, nhưng trong Thiền Định thể đột phá. Tứ Thiền, Bát Định tổng cộng gồm tám cấp bậc Thiền Định. Nếu quý vị tu các món Thiền Định ấy, sẽ đúng như cổ nhân đã nói: Ông tu ông đắc, tu đắc, chẳng tu chẳng đắc. Nếu quý vị tu, đạt được [các món Thiền ấy], sẽ thấy lục đạo, người khác tu cũng trông thấy, ta tu ta cũng thấy, mọi người chúng ta cùng nhau thảo luận, điều anh thấy những điều tôi thấy đều giống nhau, chứng minh chúng chẳng phải giả, thật. Đẳng cấp Thiền Định của quý vị càng cao, quý vị thấy không gian càng lớn. Tứ Thiền gồm mười tám tầng trời, lên cao hơn còn Tứ Không Thiên, Tứ Không Thiên chẳng thân thể. Tứ Thiền thân thể, cung điện, nơi trụ, Tứ Không Thiên không có, phàm nhân chúng ta thường gọi Tứ Không Thiên linh giới, họ linh hồn, nhưng không nhục thể. sao không nhục thể? Họ chẳng cần nhục thể, nhục thể phiền phức quá, không cần đến nhục thể sẽ tự tại lắm! Nói thật ra, vào thuở xưa, khi Phật pháp chưa truyền đến Trung Quốc, người Trung Quốc đã tưởng ấy. Lão Tử nói một câu như sau: Ngô hữu đại hoạn, vị ngô hữu thân (Ta mối họa hoạn lớn ta thân), Ngài nói:Mối lo âu lớn nhất của ta gì? Ta thân, thân thể có, không thân thể sẽ tự tại lắm!Không thân thể chính Tứ Không Thiên, thật sự [cõi trời ấy]; thế, tôi gọi [chư thiên trong] Tứ Không Thiên phàm phu cao cấp. Khi tôi giảng kinh dùng danh từ ấy, phàm phu cao cấp! Họ chẳng cần thân thể, không cần đến thân thể sẽ chẳng cần phải ăn cơm, cũng chẳng cần phải mặc quần áo, cũng chẳng cần phải nhà để ở, quý vị thấy giảm bớt nhiều chuyện lắm! Đó phàm phu cao cấp.

      Chỉ cần công phu định lực, đạt đến Thiền, tuy Thiền chẳng nhìn thấy các cõi cao hơn, nhưng họ thể thấy những cõi thấp hơn, cõi thấp hơn gì? thể thấy địa ngục. Địa ngục cũng cùng phức tạp, chỗ khổ nhất gọi địa ngục Gián (Avīci Niraja), người ấy đều thể thấy. thế, lục đạo chẳng phải [một thuyết riêng biệt của một] tôn giáo nào, chẳng phải suy nghĩ loạn xạ, thật sự chuyện ấy. Chúng ta hiểu luận Phật pháp, sao lục đạo? sao thiên đường? Thiên đường cũng chẳng đơn thuần như trong tôn giáo đã nói, rất nhiều loại thiên đường, thiên đường rất phức tạp. Hơn nữa, trời còn hai mươi tám tầng bậc cao thấp khác nhau. Những điều này do cổ La Môn phát hiện, cũng thể nói từ một vạn năm trước khi Phật Thích Ca xuất thế, người ta đã hiểu ràng, rành rẽ, nhưng sao thiên đường địa ngục? Trong Định, họ (các tu La Môn) có thể thấy những chuyện ấy, do nguyên nhân những chuyện ấy, chẳng ai thể giải đáp. Do nguyên nhân nào lục đạo? Lục đạo từ lúc nào? Chẳng ai biết! Lục đạo còn lúc kết thúc hay chăng? Cũng chẳng ai biết! Ngoài lục đạo còn thế giới [nào khác] hay không? Những câu hỏi ấy đều chẳng ai giải đáp. Chúng ta hãy suy nghĩ: Phật Thích Ca một người trẻ tuổi, hiếu học, thuở ấy Ngài tham học, tiếp xúc tất cả các tôn giáo tại Ấn Độ. Ngài cũng tiếp xúc tất cả các học phái, cũng đã từng học với họ suốt mười hai năm, từ năm mười chín tuổi học đến lúc ba mươi tuổi, tức là mười hai năm. Nói chung, những thể tiếp xúc, Ngài đều tiếp xúc toàn bộ, những vấn đề ấy được giải quyết hay không? Chẳng giải quyết! Chúng ta hãy so sánh, thuở trẻ chúng tôi cũng giống như vậy, chuyện đều muốn tìm cặn kẽ đến nơi đến chốn, chưa tìm đến nơi sẽ chẳng cam lòng; nhưng những vấn đề giống như mấy vấn đề chúng tôi vừa nêu trên đây, chẳng thể giải đáp. không học được từ chỗ nào, đức Phật buông những điều đã tham học trong suốt mười hai năm xuống, dưới cội cây Tất Bát La (Pippala) bên sông Hằng, nhập Định dưới cây to ấy, nhập Thiền Định càng sâu hơn. Quý vị thấy Thiền Định thông thường tám tầng lớp, Ngài nhập càng sâu hơn, Thiền Định càng sâu hơn Ngài bèn giác ngộ. Sau khi xuất Định, đại triệt đại ngộ, đó minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Những vấn đề ấy hoàn toàn được giải đáp, biết lục đạo hình thành như thế nào, biết trụ hình thành ra sao, hiểu ràng, rành rẽ.

      Chúng ta thể tin tưởng những điều đức Phật đã nói hay chăng? thể chứ! sao? Ngài nhập đến tầng lớp ấy, thấy toàn thể trụ, sự phát sanh nguyên khởi của trụ, nguyên khởi của sanh mạng, ta do đâu có, đều thấy ràng, rành rẽ. Trong các môn đệ của Phật, cũng những vị nhập Định đến tầng lớp ấy cũng trông thấy, mọi người thấy giống như nhau, chẳng giả! Căn bệnh của chúng ta đa nghi, lắm nỗi hoài nghi. Quý vị thấy, tôi vẫn chưa thấy, nhưng thấy mọi người nói giống hệt nhau, chúng ta do để tin tưởng. Không ngờ ba ngàn năm sau, trong hiện tại, các nhà khoa học nghiên cứu khoa học theo hai phương hướng: Một thế giới mô (macrocosm), chuyên nghiên cứu đại trụ. Hai đi theo hướng ngược lại, tức thế giới vi mô (micorcosm), thế giới vi Lượng Tử Lực Học, nghiên cứu nguyên khởi của vật chất. Quý vị thấy: Nói thông thường thì chúng ta nói một tế bào, lại phân tích tế bào liền biến thành phân tử. Lại phân tích phân tử, phân tử do đâu có? Do nguyên tử hợp thành. Nguyên tử do các điện tử (electron) hạt nhân nguyên tử (atomic nucleus) hợp thành. Lại phân tích nguyên tử sẽ các hạt bản (elementary particles), hiện thời lại phân tích các hạt bản thành khoa khắc (quark, hạt vi lượng), hiện thời lại phân tích hạt vi lượng thành lượng tử (quantum), lượng tử còn gọi tiểu quang tử (photon), chẳng biết trong tương lai còn có thể chia nhỏ hơn nữa hay không. Hiện thời mới phân tích đến đây thì ngừng, chưa thể chia nhỏ hơn nữa. Phát hiện chuyện gì? Phát hiện hiện tượng vật chất vốn là một huyễn tướng do những tiểu quang tử ấy liên tục tích lũy sanh khởi. thế, đây, các nhà lượng tử lực học cho chúng ta biết: Trong trụ chỉ ba thứ, những thứ khác đều không có, ba thứ ấy năng lượng, vật chất, thông tin.

      Quý vị thấy từ ba ngàn năm trước, từ trong Định, đức Phật đã phát hiện, Ngài trông thấy, tài giỏi hơn các nhà khoa học. Các nhà khoa học trước hết từ Toán Học tìm ra luận này, sau đấy mới dùng các dụng cụ để quan sát, thấy gì? Vật chất xuất hiện như thế nào? Vật chất từ trong Không sanh ra Có. Tốc độ của lại quá nhanh, trong khoảng sát-na bèn chẳng còn, từ lúc sanh khởi đến khi tiêu diệt gần như đồng thời, tốc độ quá nhanh, nhanh đến nỗi chúng ta không cách tưởng tượng. Trong kinh điển, Thích Ca Mâu Ni Phật hỏi Di Lặc Bồ Tát, cũng thể coi Di Lặc Bồ Tát giống như một vị giáo chuyên dốc sức nơi Tâm Học trong nhà trường hiện thời, chúng ta gọi Ngài nhà tâm học trong Phật môn. Đức Phật hỏi Bồ Tát, cuộc hỏi đáp ấy thật ra nhằm chỉ bảo chúng ta. Đức Phật hỏi Ngài, người thế gian bình phàm chúng ta dấy lên một niệm, tâm hữu sở niệm (tâm bao nhiêu niệm), [nghĩa là] dấy lên một niệm thì niệm ấy rất thô, phân tích ra sẽ bao nhiêu tế niệm? Trong tế niệm bao nhiêu hiện tượng vật chất? bao nhiêu hiện tượng tinh thần? Đức Phật hỏi một vấn đề như vậy. Di Lặc Bồ Tát trả lời: Trong một khảy ngón tay, quý vị thấy thời gian của một cái khảy ngón tay rất ngắn. Trong một cái khảy ngón tay ba mươi hai ức trăm ngàn niệm. Trong một giây, tôi thể khảy khoảng chừng bốn lần, tôi tin người khảy nhanh hơn tôi, nếu năm lần thì trong một giây bao nhiêu niệm, tức [bao nhiêu] tế niệm? Nói theo cách giảng của Di Lặc Bồ Tát sẽ một ngàn sáu trăm triệu. Quý vị thấy trong một giây một ngàn sáu trăm triệu niệm, tức tế niệm, đơn vị một triệu. Đấy cũng sự sanh diệt của các hiện tượng vật chất như các nhà khoa học đã thấy trong hiện tại, thời gian ấy bao lâu? một phần trong một ngàn sáu trăm triệu phần của một giây, tức trong một giây một ngàn sáu trăm triệu lần sanh diệt. Quý vị làm sao thể nắm bắt được? Do vậy, họ phát hiện hiện tượng vật chất chẳng phải thật.

      Vật chất sanh khởi như thế nào? Vật chất ý thức, niệm, niệm tinh thần, hiện tượng tinh thần tích lũy liên tục biến thành vật chất. thế nói: Trong trụ chỉ ba thứ hiện tượng tồn tại; kinh Đại Thừa gọi ba thứ hiện tượng ấy [ba tế tướng của] A Lại Da, A Lại Da mới Tạo Vật Chủ (Tạo Hóa), y báo chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều do tạo ra. Khoa học gia gọi nghiệp tướng của A Lại Da năng lượng, cảnh giới tướng của A Lại Da được các nhà khoa học gọi vật chất, chuyển tướng của A Lại Da, chuyển tướng chuyển biến, được khoa học gọi thông tin. Ba tế tướng của A Lại Da rất tuyệt. Bất quá, trong kinh đức Thế Tôn gọi thông tin thức thứ sáu, tức Ý Thức, Ý Thức là phân biệt, chuyên chú trọng phân biệt. năng lực phân biệt cùng mạnh mẽ, đối với bên ngoài thể duyên tới không pháp giới, đối với bên trong thể duyên đến A Lại Da, nhưng chẳng thể kiến tánh, sao? phân biệt, chấp trước. Như thế nào thì mới thể kiến tánh? Buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống sẽ kiến tánh, sẽ thành Phật. thế, tuy (A Lại Da) năng lực ấy, các khoa học gia năng lực ấy, họ vẫn phàm phu, chẳng thể chứng quả A La Hán, cũng chẳng phải Bồ Tát. Phải như thế nào mới chứng đắc Phật, Bồ Tát, A La Hán? Phải buông xuống. Khoa học gia chẳng buông xuống. Hễ buông chấp trước xuống bèn chứng quả A La Hán, buông phân biệt xuống bèn chứng Bồ Tát, buông khởi tâm động niệm xuống sẽ Phật Đà. Do vậy, Phật, Bồ Tát, A La Hán ai? chính quý vị, chỉ cần quý vị chịu buông xuống được! Trong giáo pháp Đại Thừa thường nói: Hết thảy chúng sanh vốn Phật, đúng vậy, chẳng giả, chẳng sai nào! thế, chúng ta phải nhận biết Phật, hiểu ràng, minh bạch.

      Rốt cuộc, Phật pháp giảng những gì? Chúng ta dùng danh hiệu để giảng [thì Phật pháp] giảng về Thích Ca Mâu Ni, điều này chẳng sai, nhưng rất hồ. Con người hiện thời mong quý vị nói cụ thể hơn một chút được hay không? Thích Ca Mâu Ni Phật giảng những trong bốn mươi chín năm? Nói theo cách hiện thời, những điều Phật đã giảng trong bốn mươi chín năm đều trong kinh điển, kinh điển giảng những gì? Giảng luân lý. Luân gì? Nói về các mối quan hệ của con người, [tức là] quan hệ giữa con người với nhau, quan hệ giữa người động vật, người thực vật, người khoáng vật, quan hệ với núi, sông, đại địa, quan hệ giữa con người hiện tượng tự nhiên. Quan hệ với hiện tượng tự nhiên quan hệ với trụ; lại còn quan hệ giữa con người các chiều không gian khác nhau. Những mối quan hệ ấy đều thuộc về luân lý, phạm vi rộng hơn luân được giảng trong học thuật truyền thống Trung Quốc rất nhiều! Luân trong truyền thống Trung Quốc tối đa chỉ giảng quan hệ giữa con người với nhau quan hệ giữa người với động vật: Phàm thị nhân, giai tu ái. Ái ốc cập điểu (phàm người đều phải yêu. Yêu nhà, yêu lây cả chim). Ta yêu mến căn nhà của ta, trên mái nhà chim làm tổ, ta cũng yêu mến chúng. Quý vị yêu thương những động vật ấy, quan hệ luân Trung Quốc chỉ giảng tới đây. Quan hệ luân trong nhà Phật nói thật viên mãn, ngay cả các chiều không gian khác nhau trong trụ cũng được bao gồm trong ấy. Chiều không gian bất đồng nói tới trời, đất, quỷ thần. Trời đất, quỷ thần chúng sanh giống như chúng ta, họ cũng mê, chẳng giác, phước báo khác nhau, nhưng họ phàm phu, chẳng phải thánh nhân. Đức Phật giảng đạo đức, nhân quả, lại thưa cùng quý vị, Ngài giảng triết học, khoa học, năm hạng mục ấy Ngài đều giảng đến rốt ráo viên mãn, thật tuyệt diệu! thế, khoa học được giảng trong kinh Phật đem so với khoa học hiện thời thì khoa học vẫn thua kinh Phật một khoảng cách lớn, triết học cũng giống như vậy.

Chúng ta sanh nhằm thời đại này chẳng may mắn lắm, sao? Trong thời đại này, chẳng người chân chánh học Phật. Vào thời xưa, một trăm năm trước, trong thế kỷ trước, những vị đại đức trong Phật môn, bất luận tại gia hay xuất gia, đều thể giảng giải đạo lý. Hiện thời không có, người tại gia giảng không được, người xuất gia cũng chẳng giảng được! Chúng ta học hành trong nhà trường đã bị hướng dẫn sai lầm, giáo viên trong nhà trường bảo chúng tatôn giáo tín, Phật giáo càng tín, tôi đã học khái niệm này từ nhỏ trong nhà trường. sao Phật giáo càng tín? Tôn giáo cao cấp chỉ thờ một vị thần, trong trụ chỉ một vị chân thần (chúa thật), còn Phật giáo [thần thánh] cũng lạy. cũng lạy thì đa thần giáo, phiếm thần giáo (Pantheism). Đa thần giáo phiếm thần giáo tôn giáo cấp thấp trong các loại tôn giáo. Từ nhỏ, chúng tôi tiếp nhận sự giáo dục, quan niệm như vậy, cho nên khi lớn khôn, chẳng tiếp xúc tôn giáo, [cho là] tín. Thấy người khác thắp hương, [cười nhạo kẻ ấy] tín, bên cạnh cười chê kẻ ấy. Chúng tôi sống trong hoàn cảnh như thế. Nếu tôi chẳng gặp tiên sinh Phương Đông Mỹ, suốt đời này trọn chẳng duyên với tôn giáo! Tôi theo thầy Phương học triết học, ảnh chụp bên kia ảnh thầy Phương. Tôi theo thầy học triết học, thầy giảng cho tôi một bộ triết học khái luận, tôi cùng cảm kích thầy. Trong phần cuối cùng, thầy giảng về triết học trong kinh Phật. Khi ấy, tôi cùng kinh ngạc, nói:Thưa thầy! Phật giáo tôn giáo, tín, lại còn phiếm thần giáo, tôn giáo cấp thấp, làm sao triết học cho được?Thuở ấy, tôi hai mươi sáu tuổi, thầy gần như cùng lứa tuổi với cha tôi, thầy phải lớn hơn tôi hai mươi mấy tuổi. Thầy bảo tôi: Anh trẻ tuổi, không hiểu, chúng ta học triết học, Thích Ca Mâu Ni Phật triết gia đại nhất trên thế giới. Tôi chưa hề nghe ai nói điều ấy, chưa hề ai bảo tôi, Thích Ca Mâu Ni Phật triết gia, tôi rất kinh ngạc.

      Thầy nói: Triết học trong kinh Phật đỉnh cao nhất trong triết học trên toàn thể thế giới, học Phật hưởng thụ cao nhất trong đời người. Tôi tiếp xúc Phật giáo do nghe buổi giảng ấy, thay đổi cách nhìn sai lầm trong quá khứ như vậy đó, biết trong Phật giáo những điều tốt đẹp. Thầy lại đặc biệt dặn tôi:Thời cổ, trong Phật môn những vị cao tăng đại đức thật sự những vị đại học vấn, cũng người đạo tâm, đạo đức, học vấn. Thầy nói hiện thời chẳng có: Nếu bây giờ anh học triết học trong kinh Phật, học nơi nào? Trong kinh điển. Anh đến chùa miếu sẽ không thấy, nhưng trong chùa miếu kinh điển, anh tìm trong kinh điển sẽ tìm được. Phương hướng này cùng trọng yếu! Nếu thầy không chỉ sẵn cho tôi chuyện này, tôi đến chùa miếu nhìn vào những người xuất gia, tôi cảm thấy họ vẫn làm chuyện tín, sẽ nẩy sanh hoài nghi đối với lời thầy nói. Ngài an bài tốt đẹp con đường ấy cho tôi:Anh hãy đổ công nơi kinh điển. Ưu điểm của chúng tôi thật thà, nghe lời, thật sự làm. Từ lúc tiếp xúc thuở ấy cho đến nay năm mươi chín năm, sang năm một giáp, tức sáu mươi năm. Sáu mươi năm tu học, chứng tỏ lời thầy nói chẳng sai chút nào, lại còn nhận thấy trong kinh Phật không chỉ triết học tối cao, còn khoa học tối cao.

      Lại nhìn ra thế giới hiện thời, triết học chẳng thể giải quyết vấn đề, khoa học chẳng thể giải quyết vấn đề, trong kinh Phật vốn đã toàn bộ [giải pháp cho những vấn đề ấy]. Từ ba ngàn năm trước, Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng ràng, thật phi phàm. vậy, vào thập niên bảy mươi, tức trong niên đại 1970, tiến Thang Ân Tỷ (A.J. Toynbee) của nước Anh đã nói một câu: Giải quyết vấn đề hội trong thế kỷ hai mươi mốt, chỉ học thuyết Khổng Mạnh của Trung Quốc Đại Thừa Phật pháp. Người Anh nói như vậy, ông ta một triết gia sử gia nổi tiếng trên thế giới. Tôi sang thăm Luân Đôn hai lần, mục tiêu đến thăm ba trường đại học của Luân Đôn Ngưu Tân (Oxford), Kiếm Kiều (Cambridge) đại học Luân Đôn, ba trường này trung tâm nghiên cứu Hán học của Âu Châu, các trường khoa Hán Học nổi tiếng trên thế giới. Tôi gặp những giáo sinh viên nơi đó, tôi rất cảm động, họ đều người phương Tây, nói toàn giọng Bắc Kinh đúng tiêu chuẩn, tôi chẳng bằng họ. Họ thể đọc sách vở Trung Quốc, xem văn chương Văn Ngôn của Trung Quốc. Lại còn một sinh viên kể với tôi anh ta dùng kinh Lượng Thọ viết luận văn tiến sĩ. Tôi hỏi anh ta:Kinh Lượng Thọ hiện thời chín phiên bản, anh dùng loại nào?Anh ta dùng bản hội tập của cụ Hạ Liên Cư, giống như bản chúng ta đang sử dụng, dùng bản ấy để viết luận văn tiến sĩ. Ngoài ra, một đồng học khác, cũng người ngoại quốc, dùng sách Mạnh Tử để viết luận văn. Còn một người dùng tác phẩm của Vương Duy[1], [Vương Duy] một nhà văn học đời Đường, tôi thấy vậy rất vui vẻ.

      nơi ấy, tôi cũng giảng cho họ một buổi, tuy thời gian chẳng dài, nhưng rất khơi gợi hứng thú nơi họ. Các vị giáo đồng học cùng ngồi nghe. Tôi lên bục giảng, trước hết, nêu câu hỏi. Tôi nói:Ông Thang Ân Tỷ người Anh giống như quý vị. Quý vị đều theo ngành Hán Học, đối với Nho, Thích, Đạo của Trung Quốc đều hiểu rất ràng, đều đã dốc công sức nơi ấy. Tôi nói:

- Ông Thang Ân Tỷ đã bảo:Để giải quyết vấn đề hội trong thế kỷ hai mươi mốt, chỉ học thuyết Khổng Mạnh của Trung Quốc Đại Thừa Phật pháp. Nay quý vị đều nghiên cứu những thứ ấy, quý vị hãy nghĩ xem đúng hay không? Học thuyết Khổng Mạnh thể [giải quyết] được hay không? Dùng được hay chăng? Đại Thừa Phật pháp thể [giải quyết] được không?

Tôi nêu ra câu hỏi ấy. Bọn họ nhìn tôi cười chẳng nói năng gì, tôi đợi mấy phút. Sau khi tôi đợi mấy phút chẳng ai nói gì, tôi hỏi ngược lại:Chẳng lẽ tiến Thang Ân Tỷ nói sai rồi ư?Họ cũng không trả lời, nhìn tôi cười, không trả lời, rất lợi hại! Cuối cùng tôi bảo họ:Lời ông Thang Ân Tỷ nói chẳng sai, nhưng rất nhiều người đọc rồi hiểu sai, hiểu lầm ý ông ta. Tôi nói:Tôi nêu ra câu hỏi này, tôi nói đến Nho, Thích, Đạo, chắc chắn quý vị lập tức liền nghĩ. Nói tới Nho, quý vị nghĩ đến Tứ Thư, Ngũ Kinh, mười ba kinh, đúng hay không?Họ gật đầu.Nói tới Phật, quý vị nhất định nghĩ tới Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Bát Nhã, những kinh điển Đại Thừa ấy. Nói đến Đạo, quý vị nghĩ đến Lão Trang. Đúng vậy! Tôi nói:

- Đấy gì? Đấy hoa quả của Nho, Thích, Đạo. Đơm hoa, kết quả, rất đẹp đẽ, dễ coi, những thứ ấy thể giải quyết vấn đề trong hội hiện thời hay không? Chẳng thể! Lời ông Thang Ân Tỷ nói chẳng sai, quý vị phải hiểu, giống như thực vật, hoa quả do đâu có? Từ thân cây mọc ra. Hoa quả mọc trên cành nhánh, cành nhánh mọc từ thân cây, thân cây mọc từ rễ, quý vị cứ suy xét ngược lại từng tầng một, đến cuối cùng, thứ quan trọng nhất? Rễ! Căn cội của Nho gì? Căn cội của Đạo gì? Căn cội của Phật gì? Rễ trồng vững, sẽ thể nẩy mầm, tăng trưởng mạnh mẽ, trưởng thành, đơm hoa, kết quả.

      Hiện thời như thế nào? Không rễ! Quý vị hằng ngày nghiên cứu Nho, Thích, Đạo, giống như hoa cắm trong bình chẳng rễ, chết ngắc, chẳng sống; thế, biến thành học thuật, dụng! Làm thế nào để thể giải quyết vấn đề? Ông Thang Ân Tỷ nói chẳng sai, chúng ta phải tìm ra căn của Nho, Thích, Đạo, thực hiện từ căn bản. Lời ông ta nói thật, tuyệt đối chẳng giả. Thật sự thể cứu vớt tình trạng hội suy đồi trong thế kỷ hai mươi mốt, cũng thể cứu vớt nguy trên địa cầu. Cội rễ của Nho Đệ Tử Quy, cội rễ của Đạo Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, cội rễ của Phật Thập Thiện Nghiệp Đạo, những thứ ấy trọng yếu! Trước đây học Nho, học Phật, học Đạo đều vun bồi vững vàng những căn cội ấy. Nếu quý vị chẳng vun bồi vững vàng những căn cội ấy, quý vị học cũng dụng. Cuối cùng, tôi bảo họ:

- Tôi rất phục quý vị, thật đấy, chẳng giả đâu, từ trong đáy lòng nói như vậy. Chư vị học tập, Nho học, Đạo học, Phật học. Tại ngoại quốc, người ta chẳng viết chữ hoặc xem chữ từ bên này (bên phải trang giấy). Đối với Nho học, Đạo học, Phật học, chư vị thể đạt được học vị Tiến Sĩ, thể làm một vị giáo sư, thể một nhà Hán học của châu Âu; nhưng chắc chắn cả đời này quý vị chẳng thể sung sướng, tự tại, tiêu sái như tôi được. Khẳng định quý vị chẳng thể! Chắc chắnsuốt một đời này, quý vị vẫn sống trong thế giới phiền não này.

Mọi người đều cười. Tôi nói:

- sao? Tôi học tương phản với quý vị. Quý vị hãy nhìn lại, từ đây hãy nghĩ tới quá khứ, học Phật, học Nho, học Đạo khác hẳn! Ý vị khác hẳn! Học Nho phải học giống như Khổng Tử, học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ (học rồi luyện tập, cũng chẳng sướng sao), vui sướng khôn sánh! Học Phật phải học giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, pháp hỷ sung mãn, thường sanh tâm hoan hỷ. Học Đạo phải học giống như Lão Trang, đấy gì? Trí huệ. Chư vị học hỏi Nho học, Đạo học, đó tri thức. Tri thức trí huệ hai chuyện [khác nhau]. Tri thức giải quyết vấn đề chỉ thể giải quyết cục bộ, còn mang lại rất nhiều hậu quả. Trí huệ giải quyết vấn đề viên mãn, không để lại hậu quả.

Tôi nói:

- Quý vị hãy khéo học hai chữ ấy, quý vị hãy từ chỗ này học Nho. Học Nho Nho học khác nhau!

thế, giáo Mạch Đại Duy (David McMullen) của bọn họ một nhà Hán học hiện thời, sau khi nghe tôi giảng diễn còn đặc biệt tới Trung Quốc, tới trung tâm Thang Trì để khảo sát, nơi đó bốn ngày. Sau khi về nước, lại đến Hương Cảng tìm tôi, nói chuyện với tôi sáu tiếng đồng hồ. Ông ta mời tôi sang Luân Đôn dạy học. Tôi cũng rất cảm ơn ông ta đã coi trọng tôi. [Ông ta mời tôi] sang đại học Kiếm Kiều Luân Đôn để lập một học viện Đại Thừa Phật học. Hệ thống giáo dục của Anh quốc tuân theo quy chế học viện[2], như Ngưu Tân Kiếm Kiều, nói chung mỗi trường đều hơn năm mươi học viện. Tôi rất cảm kích ông ta, rất khó có, Kiếm Kiều trường đại học được xếp hạng thứ ba trên cả thế giới. Tôi cảm ơn ông ta, nói:Tôi không thể đi. Ông ta hỏi: sao?Tôi nói:Quy chế trong trường quý vị hạn chế tôi, tôi chẳng thể dạy học sinh được!Ông ta nói:Thầy dùng phương pháp nào để dạy?Tôi đáp:Tôi không phương pháp, tổ tiên chúng tôi phương pháp. Ông ta nghe như vậy, rất kinh ngạc, ông ta nhà Hán học, nghe nói tổ tiên chúng ta còn phương pháp mật, cho nên ông ta hết sức kinh ngạc. Ông ta nói:Phương pháp của tổ tiên chỗ nào?Tôi nói:Nói thật ra, ông đã từng học qua, nhưng không để ý. Ông ta nhìn tôi, tôi hỏi:Đã đọc Tam Tự Kinh hay chưa?Đọc rồi, ông ta thuộc lòng Tam Tự Kinh, thuộc lòng Luận Ngữ, chẳng đơn giản! Tôi nói:Tám câu đầu trong Tam Tự Kinh nguyên tắc chỉ đạo tối cao để giáo hóa chúng sanh của tổ tiên Trung Quốc từ ngàn vạn năm qua!Ông ta nghe xong, ngơ ngác. Tôi nói:Ông thuộc lòng Tam Tự Kinh, cũng đọc nhuyễn nhừ rồi. Tôi tin ông đã từng giảng qua, nhưng chưa giảng đến tầng ý nghĩa này. Ông ta thừa nhận [tôi nói đúng].

      Tôi nói:

- Giáo dục con người, đầu tiên quý vị phải khẳng định quan điểm: Nhân chi sơ, tánh bổn thiện, quý vị thật sự giáo dục, nhất định khẳng định con người tánh vốn lành. Thiện đây chẳng phải thiện trong thiện ác, thiện từ ngữ ca ngợi, tốt đẹp, viên mãn nhất, chẳng mảy may khiếm khuyết nào, đó thiện, chẳng phải thiện trong thiện ác. Cũng như kinh Hoa Nghiêm đã nói: Hết thảy chúng sanh đều trí huệ đức tướng của Như Lai, người Trung Quốc gọi điều đó bổn thiện, phải thừa nhận điều này! Sau đấy, quý vị phải tin tưởng: Tánh tương cận, tập tương viễn (tánh giống như nhau, do huân tập (giáo dục) khác biệt), bổn tánh của mỗi nhân giống nhau. Phật pháp nói mỗi nhân vốn Phật, còn trong truyền thống Trung Quốc, bổn tánh của mỗi người đều bổn thiện, đều tương đồng. Tập tương viễn, sao biến thành bất thiện? Do tập tánh. Tập tánh tức nói quý vị bị ô nhiễm bởi hoàn cảnh. Cổ nhân Trung Quốc nói: Cận châu tắc xích, cận mặc tắc hắc (gần son thì đỏ, gần mực thì đen). Nếu quý vị cùng thiện nhân, sẽ biến thành thiện nhân. Quý vị cùng người ác, sẽ học theo thói xấu, biến thành ác. Đó gọi tập tánh, chẳng phải bổn tánh. Mục đích của giáo dục gì? Giáo dục nhằm mục đích khiến cho quý vị từ tập tánh trở về bổn tánh, đấy giáo dục. Giáo dục nhằm biến ác nhân thành thiện nhân, biến người xấu thành người tốt, biến kẻ hoặc, điên đảo thành người thông minh, trí huệ, đấy giáo dục. Học trò chẳng thể dạy được, bèn khai trừ nó, đó giáo dục thất bại, lẽ ấy? Học trò chẳng khuyết điểm, do quý vị chẳng khéo dạy, chẳng biết dạy. Cớ sao quý vị dạy chẳng ra lại bắt tội học trò? Như vậy quý vị lầm lẫn quá đỗi rồi!

Tôi nói với ông ta như thế, ông ta bèn hoảng nhiên đại ngộ. Quý vị thấy tác phẩm ấy, trong các trường tại Luân Đôn, chẳng ai theo ngành Hán Học chẳng đọc, đó nguyên tắc chỉ đạo tối cao. thế, cẩu bất giáo, tánh nãi thiên (nếu chẳng dạy, tánh sẽ biến đổi), tưởng giáo dục phát sanh từ chỗ này, quý vị nhất định phải dạy. Nếu không dạy, kẻ ấy sẽ càng biến đổi tệ hại hơn! Con người do được dạy dỗ thành tốt đẹp, cũng do được dạy dỗ tệ hại hơn. Kẻ khác biến thành xấu xa, quý vị quyết định chẳng thể trách móc hắn, chính quý vị đã dạy kẻ ấy thành kẻ xấu! Ngày nay do ai dạy? Hiện thời, trẻ nhỏ vừa sanh ra, mở mắt ra đã học, học từ nơi đâu? Học từ TV.

      Trẻ hơi lớn lên, tôi chẳng biết Trung Quốc [như thế nào], chứ tôi Mỹ rất nhiều năm, lớp một Tiểu Học của Mỹ đã dùng điện não (computer), đã xem Internet. Lên Internet chơi gì? Bạo lực, tình dục, giết, trộm, dâm, dối, thảy đều học hết. thế, học trò Tiểu Học đi học bỏ súng trong túi giết bạn học, chẳng ác ý, đùa chơi mà! Từ Internet học được điều ấy, thật sự đùa giỡn, giết thầy, giết bạn học, giết giỡn chơi mà! Quý vị làm thế nào đây? Làm sao kết tội con mình? Đây một vấn đề lớn trong hội. Năm xưa, hình như lúc tôi Tân Gia Ba, vào năm 1999, đồng học bên Mỹ gởi cho tôi xem một cuốn tạp chí, trong ấy bài tường trình tình trạng phạm tội của thanh thiếu niên nước Mỹ, đọc xong, tôi sững sờ! Đã rất lâu chẳng sang Mỹ, tôi liên lạc với bên ấy, đặc biệt chuyện này sang đó một chuyến. Tôi đến Lạc Sam Cơ (Los Angeles) của Gia Châu (California), nhờ đồng học liên lạc cho tôi, thực hiện hai cuộc phỏng vấn trên đài truyền hình California của Mỹ. Một cuộc phỏng vấn về vấn đề giáo dục, chúng tôi tất cả bốn người, một người kiểm sát trưởng (Attorney General) của địa khu Lạc Sam (Greater Los Angeles), vị này quan tòa, một vị lãnh đạo của ngành pháp. Một người thị trưởng thành phố Phách Tát Địch Na (Pasadena), còn một vị hiệu trưởng phân hiệu Los Angeles của đại học California. Bốn người chúng tôi tham dự một giờ phỏng vấn, tọa đàm trên đài truyền hình. Tôi hỏi vị kiểm sát trưởng:Tôi đọc báo cáo trên số tạp chí này, đó phải thật hay chăng?Ông ta bảo tôi:Thật đấy. Tôi nói:Tỷ lệ phạm tội không ngừng tăng lên, quý vị cách nào khống chế, ổn định hay không?Ông ta đáp:Chẳng cách nào!Chính họ cũng biết vấn đề này rất nghiêm trọng. thế, tôi hội kiến Tổng Thống Bố Thập (Bush), tôi cũng bảo ông ta:Điều đáng lo ngại của Mỹ trọn chẳng phải ngoại quốc, tôi nói liền khi ấy. Tôi nói:Đối với thanh thiếu niên thuộc thế hệ kế tiếp, phải làm như thế nào? nghĩ tới vấn đề ấy hay không?Tôi rời nước Mỹ, nghe nói trong khi trò chuyện, ông Bush nhắc đến vấn đề này, chẳng thể giải quyết! Cuộc phỏng vấn thứ hai dành cho thân tôn giáo, viện trưởng học viện Đốc Giáo dẫn theo hai vị giáo sư, kể cả chúng tôi bốn người, ba người đến từ học viện. Chúng tôi thảo luận vấn đề ấy, tôn giáo giải quyết bằng phương pháp nào? Quan điểm như thế nào? Vấn đề cùng nghiêm trọng.

      Năm xưa, một hôm, ba viên chức từ bộ Giáo Dục, hình như một người thư, hai người kia xứ trưởng[3] đến phỏng vấn tiên sinh Phương Đông Mỹ. Hôm ấy, khéo sao tôi chạm mặt họ tại nhà thầy Phương, họ hỏi thầy Phương một vấn đề:Hiện thời chánh phủ bắt đầu phục hưng văn hóa Trung Quốc, phải làm sao thì mới thể thực hiện?Nêu ra câu hỏi ấy, tôi thấy thầy biểu lộ thái độ cùng nghiêm túc, im lặng năm phút, nhìn mọi người, không khí trong phòng khách nhỏ hết sức nghiêm túc. Năm phút sau, thầy nói:Có!Mọi người rất chú ý nghe. Điều thứ nhất, tại Đài Loan khi đó ba đài truyền hình, hãy đóng ca ba đài truyền hình ấy, lại còn rất nhiều đài phát thanh tuyến cũng cần phải đóng cửa, ngưng xuất bản báo chí lẫn tạp chí. Mấy quan chức nghe nói đều ngây người:Thưa thầy! Không thể làm được!Thầy nói:Những thứ ấy hằng ngày phá hoại văn hóa Trung Quốc, đã những thứ ấy thì còn thể phục hưng [văn hóa truyền thống] hay sao?Đúng chẳng sai nào! Chúng tôi học tập theo thầy, tiếp nhận sự chỉ dạy của thầy; thế, từ đấy trở đi, tôi không đọc báo, chẳng xem tạp chí, chẳng nghe radio, chẳng xem TV, gần như năm mươi năm; thế, tâm địa thanh tịnh, không bị ô nhiễm. Những thứ ấy quyền ô nhiễm quý vị mỗi ngày, nhưng ta quyền chẳng tiếp nhận. Tôi chẳng thể khuyên người khác đừng tiếp nhận, nhưng chính mình thể chẳng tiếp nhận. Tôi mỗi ngày đọc kinh điển Đại Thừa, đọc sách vở của cổ thánh tiên hiền, vui sướng khôn sánh, chuyện tôi cũng không biết, người khác hỏi tôi như thế nào? Thiên hạ thái bình, không chuyện ! Quý vị thấy cuộc sống thoải mái lắm, đừng nên tiếp xúc chúng (truyền hình, truyền thanh, báo chí), chẳng chuyện hết! Đức Phật dạy chúng ta, nhất trong kinh Đại Thừa, dạy chúng ta tu gì? Tu thanh tịnh, bình đẳng, giác. Mỗi ngày gìn giữ sự thanh tịnh, bình đẳng, giác, quyết định đừng nên nhiễm ô, chớ nên dao động, chớ nên vọng động, chớ nên hoặc, đấy tốt; vậy, phải hiểu điều này. Hiện thời, những phiền toái trong hội do đâu có? Hiểu ràng, rành rẽ!

Giáo dục của đức Phật tốt đẹp như thế, tổ tiên chúng ta thỉnh về Trung Quốc, quý vị phải biết [sự kiện] lịch sử này! Phật giáo chẳng tự truyền đến, Hán Minh Đế phái đặc sứ sang Tây Vực thỉnh về, do đế vương Trung Quốc thỉnh về, do tổ tiên thỉnh về. Sau khi truyền đến Trung Quốc, người Trung Quốc được tiếp xúc, đôi bên đàm luận đều hoan hỷ khôn sánh, sao? Căn bản đồng nhất. Văn hóa truyền thống Trung Quốc căn bản hiếu đạo, chớ nên không biết điều này. Căn bản của Phật pháp cũng hiếu đạo, phù hợp khít khao. Nguyên tắc chỉ đạo giáo học trong Phật pháp tịnh nghiệp tam phước. Trong Quán Lượng Thọ Phật Kinh, đức Phật đã nói ba điều nguyên tắc chỉ đạo tối cao. Điều thứ nhất hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện nghiệp, quý vị thấy hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy được đặt hàng đầu, chẳng khác [quan niệm văn hóa truyền thống của] Trung Quốc, đặt vững căn tại chỗ này. Tu học Phật pháp thứ tự từ cạn tới sâu, giống như học hành trong nhà trường, từ Tiểu Học, Trung Học, Đại Học, đến nghiên cứu sinh. Phật pháp cũng giống như vậy, tiến dần dần theo thứ tự. Giáo học trong Phật pháp, nhất định trước hết học Tiểu Thừa, Tiểu Thừa Tiểu Học trong Phật pháp; nhưng tại Trung Quốc, từ giữa đời Đường trở đi, chẳng học Tiểu Thừa, dùng Nho Đạo thay thế, còn thù thắng hơn Tiểu Thừa. Từ giữa đời Đường đến hiện tại một ngàn bảy trăm năm, xuất hiện bao nhiêu cao nhân, bất luận tại gia hay xuất gia, trọn chẳng thua kém Ấn Độ, chúng ta vượt lên trước, Phật pháp văn hóa truyền thống của Trung Quốc dung hợp thành một thể.

      Ông Thang Ân Tỷ cũng từng có nói, ông ta tán thán người Trung Quốc tâm lượng rất lớn, thể bao dung văn hóa dị tộc. Phật giáo thuộc về Ấn Độ, chẳng phải Trung Quốc, nhưng người Trung Quốc thể bao dung, dung hợp thành một thể, Phật pháp phong phú hóa văn hóa bản địa của Trung Quốc, nói thật hay! Chúng ta dùng kinh điển Đại Thừa để giải thích sách Nho kinh điển của Đạo gia, Lão Trang, sẽ nâng cao chúng lên giống như Phật pháp vậy! Chúng ta nói con người tánh vốn thiện, nhưngthiệnấy rất khó giảng. Nếu hiểuthiện thiện ác thì rất thấp, trình độ rất thấp. Quý vị dùng câu hết thảy chúng sanh vốn Phật hết thảy chúng sanh đều trí huệ đức tướng của Như Laiđể giải thíchbổn thiện, nâng cao ý nghĩa của giống như kinh Hoa Nghiêm. Phật pháp đã phong phú hóa văn hóa bản địa của Trung Quốc, phải hiểu đạo này! Bởi lẽ, tôn giáo giáo dục, tôi học nhiều năm như thế, nhận ra những tôn giáo lớn trên cả thế giới, mỗi tôn giáo đều giáo dục, trong kinh điển của họ đều giảng về luân lý, đạo đức, nhân quả, triết học, khoa học, chỉ giảng theo mức độ khác biệt, nhưng đều những thứ tốt đẹp. Đoàn kết tôn giáo lợi chỗ hóa giải xung đột, xúc tiến hội an định, thế giới hòa bình. Đặc biệt năm nay tôi tham gia hai lượt hoạt động quốc tế, cuối tháng này, tham gia tại Lai cũng một hoạt động. Tôi đi tham dự để làm gì? Không có gì khác, chỉ tuyên truyền giáo dục tôn giáo, mong mỏi mỗi tôn giáo đều trở về giáo dục, tôn giáo bèn thể phục hưng, cũng giáo dục luân lý, đạo đức, nhân quả [được phục hưng]. Trong ấy triết học, khoa học, đó [giáo dục] dành cho một ít người, còn ba thứ trước (luân lý, đạo đức, nhân quả) giáo dục phổ cập trong thế gian, phổ cập khắp thế giới, mọi người đều thể học, học luân lý, đạo đức, nhân quả, cả thế giới sẽ thể trở về trật tự cùng tốt lành. Tất cả những tai nạn trên địa cầu này đều thể hóa giải, hiện thời các nhà Lượng Tử Lực học đã chứng thực điều này, chẳng phải tín, đạo lý. Đối với những điều trọng yếu trong giáo dục truyền thống Trung Quốc giáo dục tôn giáo của ngoại quốc, làm thế nào để dung hợp giáo dục tôn giáo của ngoại quốc giáo dục truyền thống của Trung Quốc thành một thể, đấy chuyện phải nên làm của người hiện thời.

      thế, Úc, tôi Tịnh Tông Học Viện, khóa trình tại Tịnh Tông Học Viện Nho, Thích, Đạo. Kể từ tháng này trở đi, chúng tôi tăng thêm Cổ Lan Kinh (Koran) của Y Lan giáo (đạo Hồi), tăng thêm Tân Cựu Ước của Đốc giáo Thiên Chúa giáo. Chúng tôi đã hẹn sẵn với một vị trưởng lão Do Thái giáo, ông ta đã nhận lời, thể mùa Xuân năm sau sẽ giảng sáu trăm mười sáu điều giới luật của Do Thái giáo tại học viện chúng ta. Những giới luật ấy thuộc về luân lý, đạo đức, trong ấy cũng nhân quả. Chúng ta học tinh hoa của các tôn giáo khác nhau, nhằm phong phú thêm truyền thống Nho, Thích, Đạo của chúng ta. Đấy chính xác, chúng ta dẫn đầu thực hiện. Tôi dẫn đầu lần này, những tôn giáo khác sẽ theo bước, sao? Nếu họ chẳng tiến theo, sẽ chẳng cách nào qua lại với chúng ta, nhất định phải tiến theo. thế, đoàn kết tôn giáo dựa trên đâu? Dựa trên học tập kinh điển của lẫn nhau, chúng ta mới thật sự thể hóa giải mâu thuẫn, hóa giải đối lập giữa các tôn giáo, tự nhiên sẽ chẳng còn xung đột. Mong mỏi dùng giáo dục tôn giáo để dẫn đến an định, hòa bình trên toàn thế giới; đấy chuyện tốt đẹp! Chúng tôi làm chuyện này mấy năm, lòng tin đối với chuyện này, chúng ta chớ nên tiến hành một cách cục bộ, thực hiện cục bộ tốt đẹp nhưng đại hoàn cảnh bất hảo, ảnh hưởng quá lớn, chúng ta phải thực hiện trên cả thế giới. Bởi lẽ, đối tượng giáo hóa của mỗi tôn giáo đều cả thế giới, chẳng cục bộ, quan niệm hoàn toàn tương đồng. vậy, chúng ta nhất định phải nhận thức ràng về Phật giáo Phật. Lúc tôi mới học Phật, Chương Gia đại dạy tôi: Anh muốn học Phật, phải nhận biết Thích Ca Mâu Ni Phật. Anh chẳng nhận biết Ngài, trong tương lai sẽ đi vào đường vòng. Khi đi vào ngõ rẽ, chính anh cũng chẳng biết. Bởi lẽ, trong hội hiện tại sáu thứ hình thức tôn giáo bất đồng, chúng ta chớ nên không biết.

      Năm ấy, tôi giảng tại Miami, Hoa Kỳ, giảng Nhận Thức Phật Giáo, hiện thời đã in thành sách, đó bài giảng tại Miami. Thuở ấy, tôi từng giảng trong hội bốn thứ Phật giáo khác nhau, hiện thời sáu thứ, tức tăng thêm hai thứ. Thuở ấy, bốn thứ:

- Loại thứ nhất Phật giáo của Thích Ca Mâu Ni Phật giáo dục, tức giáo dục của Phật Đà. Nhất định phải biết: Cả đời Thích Ca Mâu Ni Phật kể từ ngày khai ngộ, Ngài ba mươi tuổi khai ngộ, bảy mươi chín tuổi viên tịch, sau khi khai ngộ bèn dạy học cả đời, chẳng gián đoạn ngày nào. Kinh thường nói: Giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp bốn mươi chín năm. Hơn ba trăm hội tổ chức khóa học, nay chúng ta gọi việc đó là tổ chức khóa học, cả đời Ngài tổ chức hơn ba trăm khóa học, giáo học bốn mươi chín năm. Đức Phật giáo học suốt đời, chẳng hề dựng chùa miếu. Dựng chùa miếu tình hình khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc mới dựng chùa miếu; dựng chùa, chứ không nói đến miếu. Tự viện, am đường đạo tràng giáo học của Phật giáo, những nơi ấy trường học. Tự viện, am đường trường học, chẳng phải [cơ sở] tôn giáo, dạy học ở nơi ấy. Trong tự viện hiện thời, vẫn gọi các vị chấp sự (có trách nhiệm quản trị) giống như xưa kia, chẳng hạn Trụ Trì, Phương Trượng, những danh xưng ấy tương đương với Hiệu Trưởng của nhà trường hiện thời, Thủ Tọa hòa thượng tương đương với Chủ Nhiệm Giáo Vụ, hoặc Giáo V Trưởng trong trường đại học; Duy Na tương đương với Huấn Đạo Trưởng. Hiện thời Duy Na làm gì? Cầm dùi chuông [trong khi tụng kinh], chẳng phải vậy! Duy Na người chủ trì trật tự, trông coi đức hạnh, dạy các lớp về giới luật, Huấn Đạo Trưởng; Giám Viện Tổng Vụ Trưởng. Quý vị thấy danh xưng khác nhau, nhưng tánh chất phân công hoàn toàn tương đồng. Bởi lẽ, Phật giáo Trung Quốc theo chế độ tùng lâm, chánh quy hóa giáo học, thời Thích Ca Mâu Ni Phật tại Ấn Độ không [chế độ này], hoàn toàn giáo học theo kiểu thục, giống như Khổng lão phu tử. Khổng lão phu tử cũng ba ngàn đệ tử, bảy mươi hai người hiền, tức bảy mươi hai người thật sự thành tựu. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, chúng ta cũng nên biết Ngài ba ngàn đệ tử, kinh điển chép về Thường Tùy Chúng, tức một ngàn hai trăm năm mươi lăm vị chẳng rời Phật, kinh điển thường ghi chép chuyện ấy. Tôi tin rằng khi đức Phật giảng kinh, số người đến tham dự trong những lúc đó chẳng phải chỉ vậy. thế, đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật cũng phải ba ngàn. Suốt đời giáo học, chẳng dính dáng đến tôn giáo. Thuở Phật tại thế, hoàn toàn không những nghi thức tôn giáo!

Cùng nhau lên lớp, nhưng tu hành mỗi nhân [tự thực hiện], đức Phật chẳng dạy người nào tu như thế nào, không có! Chỉ lên lớp, quý vị vấn đề nghi nan gì, hướng về đức Phật thỉnh giáo, Ngài sẽ giải đáp. cuộc sống hằng ngày đều thác bát (khất thực), giữa trưa ăn một bữa, đêm ngủ dưới gốc cây, đó gọi thầy dẫn trò vào cửa, tu hành do cá nhân. Thuở đức Thế Tôn tại thế đúng như vậy, ai nấy đều thể tự kiềm chế mình. vậy, trong Phật môn không tổ chức, học trò Thích Ca Mâu Ni Phật đông dường ấy, chẳng chia thành lớp, chẳng mời ai làm trưởng lớp, không có! Nếu có, [kinh điển] sẽ ghi chép, không có! Hoàn toàn giáo học thục. Trong các học trò, người thành tựu, học rất khá, bèn giúp đỡ những kẻ kém hơn, giống như trợ giáo của thầy. tình hình ấy, nhưng chưa tổ chức, chẳng lập đạo tràng. Nay chúng ta hãy suy nghĩ sao đức Phật chẳng lập đạo tràng? Ngài muốn lập đạo tràng sẽ chẳng khó khăn gì, gia tộc vương tộc. Khi ấy, vua của mười sáu nước lớn tại Ấn Độ đều học trò Thích Ca Mâu Ni Phật, quý vị nói xem: Ngài muốn dựng đạo tràng chẳng phải rất dễ dàng ư? Trong các học trò, người quốc vuơng, trưởng giả, đại thần, giàu rất nhiều, nhưng đức Phật không cần! sao không cần? Nay chúng ta hiểu rõ, tạo dựng chùa miếu to lớn, tráng lệ, nguy nga, sẽ kẻ động lòng, muốn khống chế, toan chiếm hữu, chẳng đạo tâm,thanh tịnh, bình đẳng, giác” bị phá hoại. Chẳng tạo dựng lý, chẳng dựng thì những người theo học đều đạo tâm, chẳng mong cầu, mới thể đạt đượckhông tiếng tăm, lợi dưỡng.

      thế, nơi đây, chúng ta học tập trong đạo tràng nhỏ này, đạo tràng này chẳng phải của tôi, do các Hương Cảng tạo dựng, mời tôi đến nơi đây giảng kinh, chẳng phải đạo tràng của tôi. Tôi không đạo tràng, nơi nào mời, tôi bèn đến đó, tự tại lắm! Trong nước những người mời tôi, đưa ảnh chụp những ngôi chùa đã dựng cho tôi xem, cung điện nguy nga, tráng lệ mời tôi đến. Tôi nói:Tôi không thể đi, vừa nhìn [bèn nói] tôi không thể đi. Họ hỏi: sao?Tôi nói:Thầy tôi Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng nơi nào to dường ấy, tôi không dám . Tôi nói:Nếu quý vị thật sự thỉnh tôi đến ở, hãy dựng một tòa nhà nho nhỏ theo lối tứ hợp viện[4], xềnh xoàng, tặng cho người ta, người ta đều chê, chê quý vị quá quê kệch. Đó gì? Đó đạo tràng bình an thể tu đạo. Xây cất nguy nga, tráng lệ dường ấy, mỗi người đều động tâm muốn chiếm lấy, làm sao quý vị sống an ổn cho được?Bởi lẽ, Thích Ca Mâu Ni Phật trí huệ, từ ba ngàn năm trước đã nêu gương cho chúng ta. Nay chúng ta càng nghĩ càng thấy lý, càng nghĩ thấy càng đúng, vĩnh viễn tâm an đắc, chẳng bị cảnh giới bên ngoài quấy nhiễu. Chúng ta phải học, học theo Thích Ca Mâu Ni Phật, chớ nên học theo thế tục. Học theo thế tục xong luôn, quý vị sẽ luân hồi trong lục đạo. Hãy học theo Thích Ca Mâu Ni Phật, thể làm Phật trong một đời này, tối thiểu làm Bồ Tát, mới kể như quý vị tu học thành tựu. Do vậy, quý vị hãy suy nghĩ xem, nhận thức Thích Ca Mâu Ni Phật quan trọng lắm!

      Nếu nói theo cách bây giờ, Thích Ca Mâu Ni Phật mang thân phận gì? Ngài một nhà giáo dục văn hóa hội đa nguyên, Ngài mang thân phận của một người làm nghĩa vụ giáo dục văn hóa hội đa nguyên, dạy học chẳng lấy học phí, cùng nhiệt tâm dạy dỗ quý vị, chẳng lấy tiền công. Khổng lão phu tử dạy học còn nhận một chút tiền công, còn một chút học phí tượng trưng, đức Phật không cần, Ngài làm công tác thiện nguyện. Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác đều nhằm nêu gương cho học trò đời sau, chứ chẳng khác! Học vi nhân sư, hành vi thế phạm (học làm thầy người, hành làm khuôn mẫu cho đời), Ngài đã làm được. Đối với Tứ Đức được giảng trong Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ, tức bài luận văn của Hiền Thủ quốc sư, tức tác phẩm Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, Ngài thật sự làm được. Tùy duyên diệu dụng, oai nghi hữu tắc, nhu hòa chất trực, đại chúng sanh khổ (tùy duyên diệu dụng, oai nghi chừng mực, nhu hòa, ngay thẳng, chịu khổ thay cho chúng sanh). Trong kinh Phật, chẳng một câu nào lời giả, thật sự làm được, lại còn làm viên mãn ngần ấy. Chúng ta học Phật phải học tập những chỗ này, chẳng chính mình, chính mình chỗ nào? trụ chính mình, hết thảy chúng sanh chính mình. Chúng ta thấy trụ cùng một thân thể với chúng ta, thấy hết thảy chúng sanh đều những tế bào trên thân chúng ta, đó đúng! Thích Ca Mâu Ni Phật xác thực thấy như thế. Chúng ta không cách nào tưởng tượng cách nhìn ấy, khi nào quý vị thật sự buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, minh tâm kiến tánh, quý vị sẽ cách nhìn giống như Phật, hoàn toàn tương đồng, chân thật, chẳng dối. thế, khẳng định Phật giáo giáo dục, giáo dục mới Phật giáo do Thích Ca Mâu Ni Phật truyền lại, sự giáo dục của Phật Đà.

      Nhưng hiện thời Phật giáo lại biến chất, biến thành tôn giáo. Thời gian biến thành tôn giáo chưa lâu! Chúng ta đọc lịch sử, thấy trước thời đại Càn Long, Gia Khánh của nhà Thanh trước kia, Phật giáo vẫn chưa biến chất. Tự viện, am đường mỗi ngày vẫn giảng học, vẫn lên lớp, nghi thức tôn giáo nhiều nhất công khóa sớm tối, đó khoa mục chung. Thời gian tụng niệm công khóa sớm tối cũng không dài, đó gì? Đó kỷ niệm thầy, mang ý nghĩa niệm niệm chẳng quên ân đức của thầy, chẳng phải lạy thần, kỷ niệm thầy. Giống như chúng ta học tập đây, chúng tôi treo ảnh chụp của thầy phía đối diện, chúng ta mỗi ngày học tập nơi đây, hướng về thầy khom mình do ý nghĩa như sau: Chẳng quên gốc, hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy, [đó là] chẳng quên gốc! Nhất định phải hiểu ý nghĩa ràng, chớ nên hiểu lầm! Chẳng phải lạy thần, chẳng phải cầu Ngài phù hộ. Lên lớp tách ra thành từng giảng đường riêng biệt. thế, trong một ngôi chùa, mấy vị Thủ Tòa Hòa Thượng, đó phân tòa giảng kinh, mỗi người giảng đường riêng. Quý vị thích học khoa mục nào thì vào giảng đường dành cho khoa mục ấy, theo vị thầy đó. Giáo chi đạo, quý chuyên (đường lối giáo hóa chú trọng chuyên nhất), giáo học trong Phật môn không giống giáo học của thế gian. Theo truyền thống, Nho, Thích, Đạo của Trung Quốc gần như đều tuân thủ nguyên tắc sau đây: Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu (thâm nhập một môn, huân tu lâu dài). Chú trọng khai ngộ, nhất định phải hiểu Tam Học Giới - Định - Huệ, Giới gì? Quy củ! Quý vị nhất định phải giữ quy củ, những thầy dạy quý vị chính quy củ, quý vị phải tuân thủ. Thâm nhập một môn, cho nên trước hết phải vun bồi căn bản.

Vào thời cổ, trên thực tế, đối với ba căn bản Nho, Thích, Đạo, tối thiểu cha mẹ giúp quý vị vun bồi căn cội Nho Đạo. Vào thời cổ tại Trung Quốc, giáo dục bắt đầu từ khi nào? Bắt đầu từ lúc mẹ mang, thai giáo! Vun bồi căn cội rất sâu. Thai giáo hiệu quả hay không? Hiện thời, ngoại quốc, qua thuật thôi miên, phương Tây đã phát hiện con trong thai mẹ đã hiểu rất ràng. Mẹ khởi tâm động niệm, ăn uống, cử động, sẽ cảm ứng rất lớn đối với con. Do vậy, từ thuật thôi miên, họ đã nghĩ cổ nhân Trung Quốc nói thai giáo hết sức lý, trẻ còntrong thai chẳng phải tri. Trẻ nhỏ vừa được sanh ra, cha mẹ người gần gũi nhất. Phàm những người lớn tiếp xúc với trẻ, ăn nói, cử chỉ đều phải giữ lễ, đoan trang. sao? Cho trẻ thấy, nghe, tiếp xúc, hoàn toàn là những điều hay lẽ phải, những thứ phản diện, bất thiện, chẳng để cho trẻ thấy, nghe, tiếp xúc, nhằm bảo vệ trẻ. Bảo vệ đến ba tuổi tức một ngàn ngày, một ngàn ngày ấy gọi vun bồi cội rễ giáo dục”. Trong ấy, người mẹ chánh yếu, mẹ thật sự yêu thương con, thật sự yêu thương chính mình, yêu thương con cái. Đối với một ngàn ngày vun bồi cội rễ ấy, cổ ngạn ngữ Trung Quốc câu: Tam tuế khán bát thập, ba năm, tức vun bồi cội rễ một ngàn ngày trong ba năm, tới tám mươi tuổi cũng chẳng thể biến đổi, cội rễ sâu xa lắm! Cũng nghĩa trẻ sẽ chẳng tiêm nhiễm những thứ bất thiện trong hội.

Hiện tại, sao trẻ nhỏ đều học theo cái xấu? Chẳng vun bồi căn cội, đến ba tuổi mới dạy sẽ chẳng kịp! Trẻ đã học theo thói xấu rồi. Bây giờ [mà nói như vậy] thì ai hiểu? Một trăm năm trước, ai nấy đều hiểu. Sau khi nhà Mãn Thanh vong quốc, hội Trung Quốc động loạn, quân phiệt cát cứ, sau đấy, chiến tranh với người Nhật, mãi cho đến hiện nay vẫn chưa cách nào khôi phục an định. Nhất trong tám năm kháng chiến, chúng tôi cảm thấy trong tám năm kháng chiến tổn thất lớn nhất, chết nhiều người ngần ấy, phá hoại sanh mạng, tài sản nhiều ngần ấy, tôi vẫn cảm thấy chuyện nhỏ, nhỏ không đáng kể, tổn thất lớn nhất truyền thống văn hóa bị xóa sạch, tổn thất ấy quá lớn. Những thứ truyền thống của Trung Quốc đã duy trì Trung Quốc bao năm như vậy, mấy ngàn năm quốc gia ổn định lâu dài, sau khi chiến tranh nổ ra, mọi người bận bịu đối phó người Nhật, mỗi ngày lo lánh nạn, tôi kẻ đích thân bị hại nên tôi biết. Sau cuộc chiến, chẳng thể khôi phục lại được, đáng tiếc lắm! Gia tộc của Trung Quốc tuyệt lắm, hiện thời chẳng còn gia tộc, nhà tan, người mất. Chư vị phải hiểu, quý vị đọc sách cổ thấy nói: Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, sao tề gia, quốc sẽ bình trị? Thời cổ,gia đại gia đình, chẳng phải tiểu gia đình, một thôn trang một nhà. Thôn trang kia Vương thôn, toàn người một nhà, một nhà mấy trăm người [đều là họ Vương]. Các vị nếu đã đọc Hồng Lâu Mộng, [gia đình họ Giả trong] Hồng Lâu Mộng một nhà, [bộ tiểu thuyết ấy] miêu tả một nhà. Gia đình thông thường, nói chung khoảng ba trăm người, nếu nhân đinh hưng vượng sẽ sáu, bảy trăm người. Gia đình rất suy, chẳng đông lắm, cũng một hai trăm người, đó rất suy. họ đại gia đình nên phải chú ý đến gia đạo, gia quy, gia học, gia nghiệp, tổ chức, chẳng thể rối loạn chút nào. Hễ loạn thì nhà ấy coi như tiêu rồi!

       Đệ Tử Quy gia quy, một phần chung cho gia quy [của từng gia tộc, ngoài phần ấy ra] còn những phần khác nhau, sự nghiệp kinh doanh của mỗi gia đình khác nhau, cho nên gia đình nào gia quy của gia đình nấy. Những điều này đều được chép trong gia phả. Chúng ta mở gia phả ra xem sẽ biết, tổ tông lập ra quy củ. Gia học thục, tức trường học dành cho con em trong gia đình. thế, tại Trung Quốc, vào thời cổ, hội giao việc giáo dục, tức giáo dục sở cho gia đình tự phụ trách. Quốc gia không chuyện này, chẳng lo việc giáo dục, giáo dục chuyện của bản thân gia đình quý vị. Quý vị nói gia trưởng (chủ gia tộc) lo việc học hành, quá nửa dùng từ đường làm trường học, từ đường trừ Xuân Thu tế tự ra, chẳng hoạt động gì. thế, từ đường trường học. Quý vị thấy gia trưởng ông nội hoặc ông cố, quan tâm đến lớp hậu duệ đời sau ngần ấy, mời thầy sẽ nhất định mời người thật sự đạo đức, học vấn đến dạy, phụ trách. Không giống như trường học hiện thời! Trường học hiện thời đối với quý vị chẳng mối liên quan nào, dẫu quý vị bỏ nhiều tiền trong phong đem tặng họ, họ vẫn chẳng quan tâm, chẳng thể mua được lòng yêu thương của họ! Do vậy, tổ tiên thật sự yêu thương con cháu. Quý vị thấy họ mời thầy, gia trưởng, tổ tông của chúng ta dập dầu lạy thầy, sao? Tôn trọng đạo. Đấy gì? Biểu diễn cho những đứa học trò là con em [của chính họ] xem. Quý vị thấy: Lúc đó,học trò con em thấy tổ tông, ông nội, cha mẹ trông thấy thầy đều cúi lạy, quý vị thể nào chẳng tôn kính thầy ư?

      Tôi học được lòng tôn kính thầy, lúc khoảng chừng sáu tuổi, vào trường tư. Chúng tôi gia học, cha tôi dẫn tôi đi học, học trò không đông lắm, khoảng chừng hơn ba mươi người, chưa đến bốn mươi người, lớn nhất mười mấy tuổi, những học sinh lớn mười lăm, mười sáu tuổi, học trò nhỏ tuổi giống như tôi sáu, bảy tuổi, cùng học chung một phòng, một thầy. Ngày nhập học, đầu tiên lễ đường, giữa lễ đường thờ bài vị Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư, tức bài vị của Khổng lão phu tử, thầy ngồi nơi đó, các đồng học chia ra đứng hai bên. Trước hết, chúng tôi đến lạy bài vị Khổng Tử, cha tôi đằng trước, tôi đằng sau, hướng về bài vị Khổng Tử hành lễ ba lần quỳ, chín lần dập đầu, đấy lễ tiết đời Thanh. Sau khi lạy xong, cha tôi mời thầy ngồi lên ghế, thầy ngồi phía dưới bài vị Khổng Tử, [cha tôi] hướng về thầy hành lễ ba lần quỳ, chín lần dập đầu. Quý vị nghĩ xem: Thầy tiếp nhận trọng lễ của cha mẹ quý vị như vậy, nếu chẳng dạy học trò đàng hoàng, lẽ nào chẳng có lỗi đối với cha mẹ người ta? Trả tiền công cho thầy tùy ý, thầy trọn chẳng đòi hỏi chuyện ấy. Quý vị giả thì cấp dưỡng thầy nhiều một chút, nghèo khổ thì châu cấp thầy ít một chút, đạt ý nghĩa được rồi! Thật sự nghèo túng, trò học giỏi, thật sự thể học, thầy còn đắp cho chi dụng trong nhà, chẳng dễ dàng! Thuở ấy, thầy thật sự hữu đạo, thầy thật sự đạo. Hiện thời chẳng có, hiện nay trò chẳng thể dạy, quý vị hơi nghiêm khắc một chút, gia trưởng bèn nói thầy xâm phạm nhân quyền, còn đi thưa lên chánh quyền, thầy còn bị phạt, làm sao dạy được? thế, hiện thời học sinh nhà chẳng hiếu thảo với cha mẹ, trường chẳng kính trọng thầy. Chẳng kính trọng thầy, chẳng lòng tôn trọng thầy, thứ cũng đều chẳng học được!

      thế, hiện thời dẫu thánh hiền làm thầy, nhưng đã không học trò, tới đâu để tìm được một học trò lòng tôn kính thầy? Chẳng phải thầy đòi hỏi học trò phải tôn kính, chẳng phải vậy, ngàn muôn phần chớ nên hiểu lầm! Một phần cung kính được một phần lợi ích, tùy thuộc học trò thể học được bao nhiêu. Quý vị nhìn từ lòng cung kính của trò đối với thầy môn học, thiếu tâm cung kính sẽ chẳng học được, chớ nên không hiểu đạo này! Trong đời này, tôi một chút thành tựu do đã được hưởng lợi ích nào? Hưởng lợi ích nhờ lúc sáu tuổi cha tôi dẫn tôi vào trường, cúi lạy thầy, tôi được hưởng lây [lòng cung kính ấy], suốt đời cũng chẳng thể quên, biết cung kính thầy. Tại Đài Loan, tôi gặp được ba vị thầy, chẳng thân thuộc, chẳng quen biết, nhưng do tâm cung kính, các thầy đặc biệt chiếu cố tôi, đạo ngay đó. Các Ngài thật sự dạy tôi chẳng đi quanh quẹo, đúng chẳng đi theo những con đường vòng vèo, thật sự dạy. Người khác thân cận thầy, thầy chẳng nói đến những điều ấy, Ngài dạy tôi phải học theo Thích Ca Mâu Ni Phật. Đối với người khác, tôi thường bên cạnh thầy quan sát, thầy chẳng dạy người khác học theo Thích Ca Mâu Ni Phật, sao? Người ta không thể học theo Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng tôi nghe lời, nên thầy dạy tôi học theo Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng tôi mới hiểu Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời dạy học, chúng tôi đi theo con đường ấy, đi suốt năm mươi chín năm chẳng thay đổi phương hướng. Trừ giảng kinh, dạy học ra, không ý niệm thứ hai, tâm bèn thanh tịnh. Tâm thanh tịnh sanh trí huệ, trí huệ thể giải quyết vấn đề của chính mình cũng thể giúp người khác giải quyết vấn đề.

      Hiện thời, sau khi tôi đến Úc châu, tham dự hoạt động trong nhà trường. Tôi đến Úc Châu do bộ trưởng di dân Úc Châu mời tôi đến, cấp cho tôi thẻ thường trú. Thẻ thường trú làm tại Hương Cảng, [ông ta] mong tôi sang Úc giúp Úc đoàn kết tôn giáo, đoàn kết các sắc dân. vậy, sau khi đến Úc, tôi mới biết chánh phủ Úc rất thông minh, họ giao công tác ấy cho trường đại học. Điều này hay lắm, đại học sẽ không thiên vị bất cứ tôn giáo nào, cũng không thiên vị bất luận sắc dân nào, họ trung lập. Chấp hành nhiệm vụ ấy nhà trường, do vậy, tôi tham dự, thực hiện công tác ấy trong nhà trường. Tôi cũng giúp nhà trường thành lập một trung tâm, tức trung tâm văn hóa đa nguyên, đấy sở hoạt động của chúng tôi. Sau biến cố Mười Một tháng Chín, tôi được nhà trường giao phó đại diện nhà trường, đại diện Úc Châu tham dự hội nghị hòa bình của Liên Hiệp Quốc. Đã nhiều năm như vậy, trước sau tham dự mười mấy lần, bảy lần trong số ấy do Liên Hiệp Quốc chủ đạo. Do tham dự, phạm vi hoạt độnggiao tiếp của tôi lớn hơn, nằm mộng cũng không ngờ tới, đi theo phương hướng quốc tế. Trong mỗi lần hoạt động quốc tế, chúng tôi đều lấy việc tuyên dương văn hóa truyền thống của Trung Quốc làm đề tài trung tâm. Chúng tôi đã được ông Thang Ân Tỷ khải thị: Giải quyết vấn đề trong hội hiện tiền, thật sự chỉ học thuyết Khổng Mạnh Đại Thừa Phật pháp; thế, cực lực đề xướng ba món căn bản. Tại ngoại quốc, tôi còn thêm vào một thứ, tức giáo dục tôn giáo, ba cội rễ của Nho, Thích, Đạo, cộng thêm giáo dục tôn giáo. Giáo dục tôn giáo nhất định phải học tập lẫn nhau, hiểu biết lẫn nhau, mới chẳng đến nỗi nẩy sanh mâu thuẫn, chẳng đến nỗi nẩy sanh đối lập. sở của sự hòa hài chỗ này, căn bản hòa hài chỗ này. Nhất định phải làm tốt điều này thì sẽ thể biến hòa hài hội, hòa hài thế giới thành hiện thực, chứ chẳng phải một điều tưởng! Những điều ấy nguyện vọng chung của tất cả các tôn giáo, cũng mục tiêu giáo học chung cực suốt đời của Thích Ca Mâu Ni Phật lão nhân gia.

      Năm 2006, tôi tham gia hoạt động của tổng bộ Văn Hóa Khoa Học Giáo Dục Liên Hiệp Quốc (UNESCO), lần hoạt động ấy lần quan trọng nhất trong tất cả các hoạt động của chúng tôi, tôi lãnh trách nhiệm tổ chức, chủ trì hoạt động này. Đề mục kỷ niệm Thích Ca Mâu Ni Phật lần thứ 2.250[5], chủ đề cống hiến của Phật tử đối với nhân loại. Chúng tôi thực hiện rất thành công, báo cáo tỉ mỉ cách giáo học truyền thống của Trung Quốc thành quả thí nghiệm. Trong bài báo cáo, tôi đề nghị, mong mỏi Liên Hiệp Quốc thể thành lập một đại học tôn giáo toàn cầu, mỗi tôn giáo thể thiết lập một học viện, liên kết các tôn giáo trên toàn thế giới, mục tiêu chủ yếu một thế giới hòa hài. Đề nghị xong, văn tự hãy còn, Liên Hiệp Quốc trọn chẳng thực hiện, không cách nào thực hiện. Đối với đề nghị này, xưa kia, hình như vào năm 1987, lần đầu tiên trở về nước, gặp gỡ lão Triệu Phác đồng hương[6]. Lần gặp mặt ấy, các đồng tu Hương Cảng theo tôi cùng đi, chúng tôi hơn hai mươi người rất náo nhiệt. Tôi nêu ra vấn đề này với cụ Phác Sơ, khi ấy, cụ nghe nói, rất vui vẻ, nhưng tuổi đã lớn quá rồi, đúng tâm thì thừa, nhưng chẳng đủ sức. Chuyện này trọng yếu, vẫn thường được nhắc đến, thường xuyên nghĩ tới, mong mỏi một ngày quốc gia thể thật sự thành lập một trường học như vậy. Phải nên hai trường, một trường về các sắc dân, đoàn kết các sắc tộc, trường kia nhằm đoàn kết tôn giáo. Học hiệu văn hóa đa nguyên đoàn kết các sắc tộc. Trung Quốc năm mươi sáu dân tộc[7], văn hóa của mỗi dân tộc đều đáng để học tập, học tập lẫn nhau. Trung Quốc năm tôn giáo, nên thể lập ra năm học viện. Ngoài năm học viện ra, còn thể thiết lập học viện quản lý, bồi dưỡng nhân tài hộ pháp, như vậy sẽ rất lợi cho quốc gia văn hóa truyền thống. Chúng ta thường nghĩ tới [điều này], tâm tưởng sự thành, rồi sẽ một ngày thực hiện được. Ngày hôm nay chúng tôi giới thiệu Bổn Thích Ca Mâu Ni Phật, học tập tới đây. Nay đã hết thời gian rồi, cám ơn mọi người.

 

Tập 86

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Lượng Thọ Kinh Giải, trang chín mươi bốn, dòng thứ năm, xem từ câu thứ hai:

      Tại Vương thành, Kỳ Quật sơn trung, Xứ Thành Tựu dã. Vương thành cổ hữu nhị thuyết, nhất viết Thượng Mao thành (hoặc tác Thượng Đệ thành, cựu thành), nhất viết Hàn Lâm thành (tân thành), lưỡng thuyết bất nhất (Tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ Quật Xứ Thành Tựu. Thành Vương Xá, xưa kia hai thuyết, một thuyết nói thành Thượng Mao (còn gọi thành Thượng Đệ, tức thành cũ), thuyết kia nói thành Hàn Lâm (thành mới), hai thuyết khác nhau). Đây điều thứ trong sáu thứ thành tựu, tức Xứ Thành Tựu, nơi chốn đức Phật giảng kinh. Đức Phật giảng đâu? Kinh văn chép: Tại Vương thành, chẳng nói trụ nói tại. Trung Quốc vào thời cổ, dùng chữ hết sức cẩn thận. Đức Phật chẳng còn chấp trước thân tướng, như trong kinh Kim Cang Bát Nhã đã nói: ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, đức Phật thật sự chứng đắc, chứng đắc Pháp Thân. Pháp Thân đâu? Không chỗ nào chẳng tồn tại, không lúc nào chẳng tồn tại. Do vậy, chẳng thể nói Ngài nơi đâu, trọn khắp pháp giới tận không giới đều chỗ trụ của Ngài. Cho nên chỉ thể nói Phật tại nơi đâu. Giống như chúng ta đến Bắc Kinh thăm hoàng cung, thấy Tử Cấm Thành to ngần ấy, hoàng thượng ở trong đó, nơi đó lớn dường ấy, hoàng thượng ngự nơi nào? trong một căn nhà nào? Hay trong đình các nào? Trong quá khứ, chẳng thể nói hoàng thượng trụ, sao? Vua tứ hải chi nội, mạc phi vương thổ (trong bốn biển, chẳng chỗ nào không phải đất đai của nhà vua), lãnh thổ quốc gia chính trụ xứ của vua, vua trong quốc gia này. Hiện thời, vua đang chỗ nào? trong quốc gia, chẳng thể nói vua trụ chỗ nào. Nếu ra ngoại quốc, [có thể nói] vua trụ trong Trung Quốc. Đối với triều Thanh thì nói [vua nhà Thanh] trụ trong Đại Thanh quốc, nói như vậy thì được. Đối với Phật, quý vị biết Pháp Thân của Phật trọn khắp pháp giới, không giới, trong đại trụ; đại trụ chẳng ra ngoài, không lớn ra ngoài, không nhỏ chẳng gồm trong. Do vậy, đối với Phật đều nói tại, Ngài tại chỗ nào!

      Thuở đức Phật tại thế, thành Vương cũng một tiểu quốc. Đức Phật xuất thế nhằm đời Châu tại Trung Quốc. Chư vị phải hiểu, thuở ấy, quốc gia chưa thống nhất. vậy, chúng ta đọc sách vở thấy vào đời Châu tám trăm chư hầu. Một [nước] chư hầu rộng chừng bằng một huyện hiện thời, còn nhỏ hơn huyện một chút. Một huyện thể hai ba nước [chư hầu]. Bởi lẽ, đại quốc một trăm dặm, tiểu quốc năm mươi dặm, kích thước năm mươi dặm, thể nói giống như một hương trấn hiện thời, vào thời cổ một tiểu quốc. Đời Châu hơn tám trăm quốc gia. Tại Ấn Độ cũng giống như vậy, cũng đều những tiểu quốc san sát, trong kinh nói mười sáu đại quốc vương, những nước tương đối lớn thì ước chừng to bằng một huyện hiện thời, đã rất lớn rồi, đại quốc đấy nhé! Hiểu đại lược hoàn cảnh địa lịch sử như vậy. Tại Vương thành, nơi nào trong thành Vương Xá? Trong núi Kỳ Quật. Ngoài thành Vương năm quả núi; đây một quả núi trong năm quả núi ấy. Nói ra mọi người đều biết đức Phật đã giảng không ít kinh núi này, phía sau sẽ còn giới thiệu, cho nên trước hết nói về Xứ.

Thành Vương Xá: hai thành Vương Xá, một cựu thành, hai tân thành. Chúng ta đọc đoạn này sẽ biết: Từ trước tới nay, các vị tổ đại đức đều khẳng định đức Phật trụ nơi cựu thành, tân thành sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật viên tịch mới được xây, đương nhiên Phật trụ tại cựu thành, chẳng trụ tại tân thành. Do vậy, Ngài trụ tại thành Thượng Đệ. Chúng ta xem đoạn kinh văn được trích dẫn kế tiếp cách giảng của các vị đại đức xưa kia. Kim cứ Trí Độ Luận trung viết: Phật niết-bàn hậu (nay dựa trên Trí Độ Luận đã nói:Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn), điều này rất trọng yếu. Sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật bát Niết Bàn, tức sau khi Ngài nhập diệt, A Thế vương, nhân dân chuyển thiểu cố, xả Vương đại thành, kỳ biên cánh tác tiểu thành (do nhân dân trở nên ít hơn, vua A Thế bèn bỏ thành lớn Vương Xá, xây một thành nhỏ bên cạnh). Thành nhỏ tân thành, tức thành Hàn Lâm. Do vậy, thể biết: Sau khi đức Phật diệt độ, thành thị ấy chẳng hưng vượng cho lắm, dần dần suy vi, số người ít ỏi. Sau khi dân chúng đã ít đi, vua A Thế cảm thấy chẳng thuận tiện lắm, bèn bỏ thành cũ, xây một thành mới bên cạnh. Thành mới nhỏ hơn, quy nhỏ hơn, đấy thành Hàn Lâm. Chân Giải vân:Bổn Vương thành giả, Thượng Đệ cựu thành (Sách Chân Giải viết:Thành Vương vốn là thành Thượng Đệ). Bổn nguyên gốc, thành Vương ban đầu cựu thành. Cánh tác tiểu thành giả, Hàn Lâm tân thành (Lại dựng tiểu thành chính thành mới Hàn Lâm), đấy tân thành. Thử Phật diệt hậu, vương trúc chi, Phật trụ hậu thành hồ (Thành ấy đã do vua A Thế xây dựng sau khi đức Phật diệt độ, lẽ đâu Phật trụ trong thành sau?) Đức Phật đã viên tịch, làm sao Ngài có thể ngự tại thành sau (thành Hàn Lâm)? Đương nhiên [thành Vương thường được nhắc tới trong kinh] thành trước (thành Thượng Đệ), thành trước cựu thành. Kim chánh Phật sở trụ xứ, minh tri Thượng Đệ thành (nay biết nơi đức Phật trụ chính thành Thượng Đệ), đó cựu thành, cũng đại thành. Thử thuyết khả chứng, Phật thuyết thử kinh thị tại cựu thành (lời này đủ chứng tỏ: Đức Phật nói kinh này tại cựu thành).

      Từ Ân Truyện vân (sách Từ Ân Truyện chép), hãy nên biết Từ Ân Truyện Đại Đường Tây Vực Ký. Từ Ân Truyện là tác phẩm do Huyền Trang đại ghi lại những chuyện trong thời gian Ngài lữ du. Trong sách ấy, một đoạn như thế này: Vương cựu thành, xử Ma Yết Đà quốc trung, cổ tích quân vương đa trụ kỳ nội. Kỳ thành hựu sinh hảo hương mao, cố cử vi xưng (Cựu thành Vương thuộc nước Ma Yết Đà (Magadha), xưa kia quân vương thường ngự trong ấy. Thành ấy lại sanh loại cỏ tranh rất thơm, nên gọi như vậy); thế, gọi Hương Mao thành. Hựu Nhật Vọng Tây Sớ viết: Nhược y Tông Gia, ưng thị Thượng Mao (Lại nữa bộ Vọng Tây Sớ của Nhật nói:Nếu theo ý Tông Gia, [thành Vương Xá] phải Thượng Mao). Thượng Mao cựu thành, Tông Gia Thiện Đạo đại sư. Người Nhật hết sức sùng kính Thiện Đạo đại sư, thông thường chẳng gọi tên Ngài gọi Tông Gia. Vọng Tây ý, diệc vị kinh trung chi Vương thành, tức Thượng Mao cựu thành. Thử thuyết khả tín, cố bất dẫn dị thuyết của Vọng Tây cũng thành Vương trong kinh chính cựu thành Thượng Mao. Thuyết này đáng tin, nên chẳng dẫn thuyết khác). Những vị cổ đức khác cũng những điểm tranh luận, chẳng cần nhắc tới, chúng ta tin tưởng thuyết này, tân thành được xây dựng sau, tức sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ mới kiến tạo, đức Phật chẳng thể nào ngự tại tân thành, cho nên [thành Vương được nhắc tới trong kinh] phải cổ thành.

      Chúng ta lại đọc đoạn tiếp theo: Pháp Hoa Luận vân: Như Vương thành thắng nhất thiết thành cố, hiển thử pháp môn tối thắng nghĩa (Pháp Hoa Luận chép:Như thành Vương vượt trội hết thảy các thành thị khác, cho thấy pháp môn này mang ý nghĩa tối thắng). Đây nói đến ý nghĩa biểu thị pháp trong nhà Phật, ý nghĩa này rất quan trọng. Người Hoa nói địa linh nhân kiệt, nơi ấy linh khí, nhất định thánh hiền trụ tại nơi ấy. Chúng ta học Phật nhiều năm như thế, chúng ta biết đức Phật đã dạy chúng ta một câu rất quan trọng: Cảnh chuyển theo tâm, cảnh” hoàn cảnh. Do vậy, chúng tôi đổi lại, nhân kiệt địa linh, [nghĩa là] nơi đây thánh hiền trụ thì nơi đây tự nhiên linh khí, sao? Cảnh chuyển theo người. Hai cách nói này đều thông suốt, đều lý. Nếu nơi này rất linh, nhất định sẽ un đúc, sanh ra thánh hiền, bậc đại thánh, đại hiền sẽ sanh nơi đây. Mặt khác, đại thánh đại hiền chỗ này, nơi này sẽ tụ tập linh khí. thế, nhân kiệt địa linh hay địa linh nhân kiệt, [nói kiểu nào] cũng đều thông suốt, nhưng ý nghĩa khác biệt. Đức Phật trọn chẳng xuất sanh tại thành Vương Xá, nhưng do đức Phật giảng rất nhiều kinh nơi ấy, nên nơi ấy linh khí. Hơn nữa, trong các nước lớn tại Ấn Độ thời cổ, thể nói thành này hưng vượng nhất, thành thị lớn nhất. Đức Phật giảng kinh tại nơi đây, cho thấy bộ kinh này thù thắng khôn sánh, mang ý nghĩa này. thế, tiếp đó, sách viết: Ngũ Thiên Trúc hữu thập lục đại thành (Năm xứ Thiên Trúc mười sáu thành lớn), đây mười sáu đại quốc vương thường được kinh nhắc tới, họ đều đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật, đều quy y đức Phật, theo Phật học tập, hộ pháp tại gia của đức Thế Tôn, họ cũngtại gia đệ tử. Trong mười sáu đại thành ấy, thành Vương lớn nhất, kinh Pháp Hoa giảng tại nơi đây, kinh Lượng Thọ cũng giảng chỗ này, giảng chẳng ít kinh tại đây, thời gian đức Phật trụ tại nơi này khá dài.

      Tiếp đó, sách lại nói: Hựu Đại Bảo Tích Kinh Luận vân:Vấn vân: cố thử pháp duy Vương thành thuyết, phi thành khuếch? (Lại nữa, Đại Bảo Tích Kinh Luận[8] viết:Hỏi: sao pháp này chỉ nói thành Vương Xá, chẳng giảng diễn tại các thành khác?). Đây lời vấn đáp được giả lập trong bộ luận ấy, sao kinh Đại Thừa Lượng Thọ phải giảng tại thành Vương Xá? sao đức Phật chẳng giảng nơi khác? Đáp viết: Thích thử pháp môn pháp vương trụ xứ cố. Dụ như Vương Xá, vương sở chỉ trụ, cố danh Vương Xá. Thử pháp môn diệc phục như thị, pháp vương trụ xứ, thích thành thử nghĩa cố, thuyết trụ Vương thành (Đáp: Nhằm nói pháp môn này trụ xứ của đấng Pháp Vương. như thành Vương chỗ ngụ của vua, nên gọi Vương Xá. Pháp môn này cũng giống như thế, chỗ ngụ của đấng Pháp Vương. Để biểu thị nghĩa này, nên nói trụ thành Vương ). Sự, Lý, biểu thị pháp, hoàn toàn tương ứng, thử pháp phápniệm Phật thành Phậttrong kinh Lượng Thọ. Bởi lẽ, pháp vương Phật, kinh này nói về điều gì? Trụ xứ của Phật, quý vị học bộ kinh này, trụ trong kinh này, quý vị bèn thành Phật, biểu thị ý nghĩa ấy. thế, sánh với Vương Xá. Người Hoa gọi Vương hoàng cung, ai ngự trong hoàng cung? Hoàng thượng ngự. Chỗ hoàng thượng gọi hoàng cung, vương xá. Thử pháp (pháp này), đây nói, đối với pháp này, cũng giống như thế. Bộ kinh này nói về điều gì? Trụ xứ của chư Phật Như Lai, nói tới điều này, quý vị thể tiến nhập pháp môn này, sẽ thành Phật, nêu bày ý nghĩa này. Do vậy, nói trụ Vương thành, quý vị thấy ý nghĩa này thù thắng dường ấy. Do vậy, nhất định phải hiểu nghĩa thú được biểu thị trong Phật pháp, không cần dùng đến ngôn ngữ, quý vị vừa nhìn, vừa tiếp xúc, liền hiểu rõ. Trong đạo tràng của Phật giáo Trung Quốc, hoàn toàn biểu thị pháp, nhưng người hiện thời chẳng hiểu. Kiến trúc, hình thức, cho đến màu sắc của đạo tràng, không chẳng nhằm biểu thị pháp. Những lục căn của quý vị tiếp xúc toàn biểu thị pháp. Nếu quý vị thật sự hiểu, chẳng cần nói một câu nào, quý vị vào tự viện, am đường, đi một vòng, Phật pháp ngay trong đó, tâm quý vị sẽ đầy ắp. Người hiện thời gọi điều này nghệ thuật hóa sự giáo học”, quý vị thấy từ mấy ngàn năm trước, Phật pháp đã đi theo hướng nghệ thuật.

      Trước tiên, giới thiệu ý nghĩa biểu pháp của thành [Vương Xá], núi cũng biểu thị pháp.Kỳ Quật sơn, thị Vương thành ngoại ngũ sơn chi nhất. Tịnh Ảnh Sớ viết: Kỳ sơn (Núi Kỳ Quật một trong năm quả núi ngoài thành Vương Xá. Tịnh Ảnh Sớ giảng:Núi Kỳ ). Kỳ (Grdhrakūta) tiếng Ấn Độ, tiếng Phạn, thử phiên danh Linh Thứu Sơn (Hán dịch núi Linh Thứu). Người Trung Quốc thường nói tới Linh Sơn, Linh Sơn nhất hội nói về nơi này. sao gọi Linh Thứu sơn? Thử sơn đa hữu linh tiên trụ, cố danh vi Linh (Núi này nhiều bậc linh tiên trụ, nên gọi Linh). Người Hoa gọi thánh hiền, người Ấn Độ gọi linh tiên. Diệc hữu Thứu chỉ thử sơn (Cũng do chim Thứu sống trong núi này), loài chim này giống như chim ưng, cũng sống trên núi này nên gọi Thứu. Hựu thử sơn đảnh tự thứu đầu, hựu danh Thứu Đầu sơn (Lại đỉnh núi này giống đầu chim Thứu, nên còn gọi Thứu Đầu Sơn). Giống như Hương Cảng của chúng ta, mọi người đều biết núi Tử của Hương Cảng. Chúng ta từ Hương Cảng nhìn sang Cửu Long[9], núi ấy quả thật rất giống một con tử nằm phục nơi ấy, chúng ta gọi núi ấy Tử Sơn. Núi này (núi Kỳ Quật) cũng chót núi giống như đầu chim ưng, nên gọi Thứu Đầu Sơn. Tây Vực chí thử sơn viết (Sách Tây Vực viết về núi này như sau), đây ghi chép của Huyền Trang đại lão nhân gia: Bắc Sơn chi dương[10] [nghĩa là] phía Bắc thành Vương Xá, phía Bắc của núi ấy, tiêu đặc khởi, thê thứu điểu, hựu loại cao đài, không thúy tương ánh, nùng đạm phân sắc (núi đột nhiên cao vót lên như chim Thứu đậu, cũng giống như cái đài cao. Sắc núi biếc in lên không trung, đậm nhạt nét). thể thấy vẻ đẹp của núi ấy qua lời hình dung của Huyền Trang đại sư. Như Lai ngự thế thùy ngũ thập niên (Như Lai ngự trong cõi đời năm mươi năm), tức Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, thuyết pháp bốn mươi chín năm. Trong bốn mươi chín năm ấy, đa thử sơn, quảng thuyết diệu pháp (thường núi ấy, thuyết nhiều diệu pháp). Trong một đời Ngài, thời gian đức Phật trụ tại chỗ này lâu nhất; thế, giảng rất nhiều kinh nơi đây.

      Trí Độ Luận viết: Kỳ sơn ư ngũ sơn trung tối thắng cố (Trí Độ Luận nói:Núi Kỳ Xà Quật thù thắng nhất trong năm quả núi). [Sở dĩ, thù thắng nhất vì]: Thứ nhất, thử sơn tinh xá, cận thành nhi nan thượng (tinh trong núi này gần thành, nhưng khó lên), núi rất hiểm trở, không dễ trèo lên được. Cận thành cố khất thực bất (gần thành nên khất thực chẳng vất vả), thuở ấy đối với nơi trụ, giảng học, đức Thế Tôn chọn lựa chỗ gần thành thị hoặc hương trấn, sao? Mọi người đều ra ngoài ôm bát khất thực, nếu quá xa sẽ chẳng thuận tiện. Cách xa khoảng ba dặm đường thích hợp nhất. Ba dặm đường thì khất thực khá thuận tiện. Nan thượng cố tạp nhân bất lai (do khó lên nên hạng người tạp nhạp chẳng đến). Do vậy, vào thời cổ, tại Trung Quốc, tự viện, tùng lâm đều được xây dựng trên núi cao, cũng do ý nghĩa này. Người bình thường chẳng chuyện gì, chẳng muốn trèo lên núi, sao? Lên núi ấy cũng tốn thời gian tối thiểu chừng nửa ngày, người ta phải làm việc nửa ngày, đâu thời gian rảnh rỗi để trèo lên núi ấy? Tự viện, am đường thuở ấy, thời đức Phật không tự viện, đức Phật luôn trong núi rừng, nghỉ dưới cội cây, giữa trưa ăn một bữa, không chỗ trụ cố định, nhưng luôn trong một khu núi, vừa thuận tiện khất thực, cũng chẳng quá xa, nên thể hiểu tình trạng sống của họ. Thứ hai, thị Kỳ sơn phước đức cát xứ (núi Kỳ Quật chốn phước đức cát tường), sao? Chỗ ấy chư thánh nhân hỷ trụ xứ, Phật vi chư thánh chủ cố đa trụ (là chỗ các vị thánh nhân thích ở. Đức Phật chúa các vị thánh, nên hay ngự đây). Các vị thánh hiền đều chuộng tu hành nơi này, đức Phật cũng chẳng rời họ. Những vị ấy, hiền nhân, La Hán, Bồ Tát đều thường hướng về đức Phật thỉnh giáo, nếu đức Phật trụ quá xa, cũng chẳng thuận tiện cho họ. hướng dẫn những vị này, nên đức Phật cũng hay ngự tại nơi này. Đấy nguyên nhân thứ hai, [khiến cho núi này] được gọi phước đức cát xứ. Thứ ba, Kỳ sơn thị tam thế chư Phật trụ xứ cố (núi Kỳ trụ xứ của tam thế chư Phật), đây một nơi được quá khứ, hiện tại, vị lai Bồ Tát thành Phật chọn lựa để tu hành, giáo học, giảng kinh, truyền pháp, một nơi rất thích đáng. Do vậy, chư Phật đều thích chỗ này.

      Thứ tư, thị trung thanh tịnh, hữu phước đức, nhàn tĩnh cố (do trong núi ấy nơi thanh tịnh, phước đức, vắng vẻ). Núi này thanh tịnh, thích hợp để dưỡng đạo. Kinh Phật thường nói A Lan Nhã. A Lan Nhã (Aranya) tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán Tịch Tĩnh xứ (chốn vắng lặng, yên tĩnh). A Lan Nhã cũng tiêu chuẩn, thời cổ, những nơi như vậy quá nửa lấy nông nghiệp làm [phương thức sinh nhai] chủ yếu. Làm ruộng chẳng thể không trâu cày, tiếng trâu kêu rất to. Nơi họ (những người tu hành) không nghe thấy tiếng trâu kêu trong nông thôn, nên cũng rất thanh tịnh, hoàn toàn khác với hội hiện thời. Trong hội hiện tại, gần như tìm không được nơi thanh tịnh, trên núi cao còn tạp âm của máy bay. thế, con người trước kia thật sự phước báo. Hiện thời, khoa học kỹ thuật phát triển, con người chẳng còn phước báo nữa. Chúng ta chớ nên không biết điều này. Nhất thiết chư Phật hành xứ, thập phương chư Bồ Tát tán thán cung kính, bát bộ đại lực chúng thần sở thủ hộ, cung kính cúng dường xứ cố. Chư Đại Thừa kinh đa tại thử sơn thuyết (là hành xứ của hết thảy chư Phật, nơi được mười phương chư Bồ Tát cung kính, khen ngợi, tám bộ đại lực chúng thần thủ hộ, cung kính, cúng dường. Các kinh Ðại Thừa phần nhiều được nói tại núi này). Đây nói: Đúng như thế, trên núi này, nhiều thần tiên, nhiều thánh nhân, thần hộ pháp cung kính cúng dường nơi ấy. thế, đức Phật nói rất nhiều kinh Đại Thừa tại nơi ấy. Chúng ta xem điều thứ năm, tức điều cuối cùng: Thị trung thập phương lượng trí huệ phước đức lực đại Bồ Tát, thường lai kiến Thích Ca Mâu Ni Phật, lễ bái, cung kính thính pháp cố. Chư Đại Thừa kinh đa tại thử sơn thuyết(Trong núi này, mười phương lượng đại lực, trí huệ, phước đức Bồ Tát thường đến gặp Thích Ca Mâu Ni Phật, lễ bái, cung kính nghe pháp. Các kinh Ðại thừa phần nhiều giảng tại núi này). Nêu ra những nhân duyên khiến cho thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế đã ngự tại núi này giảng kinh, thuyết pháp trong một thời gian dài. Núi này hết sức duyên phận với đức Phật. Pháp Hoa Luận cũng nói: Kỳ Quật sơn thắng chư sơn. Phật tại ư thử thuyết, hiển thử pháp tối thắng. Cố bổn kinh tức tại thử sơn thuyết (Núi Kỳ Quật vượt trỗi các núi khác, đức Phật thường ngự đây thuyết pháp nhằm hiển thị pháp này tối thắng. lẽ đó, kinh này được nói tại núi này). Đây dẫn chứng kinh điển nhằm giới thiệu nơi chốn đức Phật nói kinh này, hòng chứng tín với chúng ta: Thật sự một nơi để thuyết pháp.

Chúng ta xem câu kế đó: Dữ đại tỳ-kheo chúng vạn nhị thiên nhân câu (cùng với các vị đại tỳ-kheo một vạn hai ngàn người cùng nhóm họp), đó thính chúng. Bổn phẩm độc tiêu tỳ-kheo chúng cập Bồ Tát chúng (phẩm này chỉ nêu tỳ-kheo chúng Bồ Tát chúng). Khi cụ Hạ hội tập bộ kinh này, đã chia phần Chứng Tín thành hai phẩm, kinh văn rất dài, trong phẩm thứ nhất, thính chúng chỉ nói đến tỳ-kheo chúng và Bồ Tát chúng, số người không nhiều! Phẩm thứ hai, đệ nhị phẩm mạt quảng tiêu tam chúng đệ tử, cập chư thiên chúng (cuối phẩm thứ hai sẽ nêu đủ ba chúng đệ tử các thiên chúng:), kinh văn được trích dẫn đây, Hựu hữu tỳ-kheo-ni ngũ bách nhân, thanh tín thất thiên nhân (lại năm trăm tỳ-kheo-ni, bảy ngàn thanh tín sĩ), đấy tại gia sĩ;thanh tín nữ tại gia nữ sĩ, năm trăm người, Dục Giới thiên, Sắc Giới thiên, chư thiên, Phạm chúng, tất cộng đại hội (Dục Giới thiên, Sắc Giới thiên, chư thiên, Phạm chúng đều cùng nhóm họp trong đại hội). Cuối kinh lại một đoạn văn như thế này: Chư Bồ Tát, Thanh Văn, thiên long bát bộ, nhất thiết đại chúng, văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ, tín thọ phụng hành (các vị Bồ Tát, Thanh Văn, trời, rồng tám bộ, hết thảy đại chúng nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ lớn, tin nhận, vâng làm). Từ sự ghi chép này, chúng ta biết pháp hội này rất thù thắng, ngay cả trời người trong tam giới đều đến tham dự. Khả kiến thuyết kinh thời, hội trung hữu chư đại Bồ Tát, Thanh Văn, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, thanh tín sĩ, thanh tín nữ, trực chí chư thiên, Phạm chúng (có thể thấy lúc Phật thuyết kinh, trong hội các đại Bồ Tát, Thanh Văn, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, thanh tín sĩ, thanh tín nữ, cho đến chư thiên, Phạm chúng), đấy Đại Phạm Thiên, thiên long bát bộ thảy đều đến nghe pháp,hàm lai thính pháp, thử nãi Lục Thành Tựu trung chi Chúng Thành Tựu (đều đến nghe pháp. Ðây chính Chúng Thành Tựu trong sáu thứ thành tựu), quý vị thấy những người nào tham gia pháp hội này.Hội trung, hữu Bồ Tát, Thanh Văn, chư thiên nhân đẳng (trong pháp hội Bồ Tát, Thanh Văn, các hàng trời người v.v...) những người trên thế giới này, địa cầu này, tứ chúng đệ tử nhị vạn nhân đồng văn, phi thị A Nan độc văn, thị khả chứng tín (tứ chúng đệ tử một vạn hai ngàn người cùng nghe, chẳng phải chỉ mình A Nan được nghe, điều ấy đủ để chứng tín vậy). Chẳng phảimột mình A Nan nghe! Khi ấy, bọn phàm phu mắt thịt chúng ta trông thấy những người phàm. [Chỉ riêng] những người phàm đã đông hơn hai vạn, pháp hội này thù thắng quá!

      Tiếp đó, lại nói chi tiết, giải thích. Trước hết, nói tỳ-kheo gì? Dữ đại tỳ-kheo,dữ giả, cộng đồng chi nghĩa(và các đại tỳ-kheo: Dữ () nghĩa cùng chung). Rất nhiều vị đại tỳ-kheo tham gia pháp hội này, biểu Phật dữ đại chúng cộng tại hội trung (biểu thị Phật cùng đại chúng cùng trong hội), đều trong đại hội này. Tỳ-kheo thị Phạn ngữ, danh hàm tam nghĩa, cố bất phiên (Tỳ-kheo (Bhiksu) tiếng Phạn, danh từ này bao hàm ba ý nghĩa, nên chẳng dịch). Tại Trung Quốc, chẳng tìm được danh từ thích đáng để phiên dịch, nên dịch âm rồi ghi thêm lời giải thích. Danh từ này ba ý nghĩa:

- Thứ nhất Khất Sĩ. Khất () xin xỏ, người Hoa gọi họ Khất Cái (乞丐:ăn mày). Khất cái xin cơm ăn, nhưng Sĩ. () người đạo đức, học vấn, đúng mỗi ngày họ đi khất thực. Tại Trung Quốc vào thời cổ, nhân dân được chia thành bốn giai cấpsĩ, nông, công, thương”, địa vị trong hội khác nhau. người đọc sách, được thế gian tôn trọng nhất. Tuy người đọc sách chẳng địa vị, cũng chẳng của cải, nhưng được mọi người tôn kính, sao? Người ấy đọc sách hiểu lý, người Hoa tôn trọng họ. Trước đây, đọc sách đúng đọc sách thánh hiền, từ nhỏ, vỡ lòng đã đọc sách thánh hiền, hiểu lý, hiểu sự. Mãi cho đến đời Hán, nhằm thời Hán Đế, người đọc sách mới lối ra (được trọng dụng), sao? Quốc gia cần quý vị. Chư vị phải biết: Trung Quốc được thống nhất do Tần Thủy Hoàng thống nhất. Tuy đã thống nhất, hội động loạn, cũng nghĩa chẳng phải đời thịnh trị an định đích thực, không có! Mãi cho đến đời Hán, Hán Đế vị hoàng đế thứ bảy [của nhà Hán] mới chính thức đi theo phương hướng chế độ hóa, quốc gia thống nhất, cần nhân tài giúp đỡ nhà vua cai trị. Hình thành một nước lớn thật sự, chẳng phải tiểu quốc, những chư hầu giống như thời cổ hoàn toàn không còn nữa, [các nước chư hầu] đều biến thành quận, huyện; quận giống như tỉnh[11] hiện thời. Dưới tỉnh huyện, đối với các nhân viên công vụ thuộc các tầng lớp ấy, cần phải nhân tài. Tìm người đâu? Tìm người đọc sách. thế, học giỏi sẽ Sĩ. quốc gia phục vụ, tiếp nhận chức vụ do đế vương [giao phó]. vậy, hình thành chế độ khảo thí.

      Do vậy, đối với người đọc sách trong nước, học hành chuyện thuộc về gia đình, gia học, dạy dỗ trong nhà, thục trường học dành cho con em trong gia đình. Bởi lẽ, xưa kia, Trung Quốc từ cổ lấy nông nghiệp để lập quốc, luôn đại gia đình, người càng đông, càng dễ làm lụng, ít người sẽ bị khó khăn, đông người sẽ dễ kiếm sống. Do vậy, để con em trong gia đình thể học hành, nhất định phải mời thầy về dạy trong nhà; thế, thục trường học của con em trong gia đình. Học hành rất khá, sẽ tham gia các kỳ thi của chánh phủ, huyện khảo (thi cử cấp huyện). Thi đậu trong cuộc thi tại huyện sẽ gọi Tài, tức quý vị đã được chọn; nhưng vẫn tuyển cử, tuyển cử cũng chế độ được đặt ra vào thời Hán Đế, quan viên địa phương phải tuyển nhân tài cho quốc gia. Tuyển những ai? Chọn từ nhi đồng, chọn lấy đồng tử. Đồng tử nghĩa chưa thành niên. Tại Trung Quốc, “thành niên hai mươi tuổi. [Tuyển đồng tử] phỏng vấn, điều tra những kẻ chưa tròn hai mươi tuổi, quan viên xưa kia chẳng giống hiện thời TV, hình chụp, quý vị biết mặt, trước kia [dân chúng] không biết [mặt mũi quan viên]. Nếu ông ta chẳng mặc quan phục, quý vị sẽ chẳng biết ông ta quan. Ông ta mặc thường phục, đi thăm dò, tuyển nhân tài cho quốc gia. Tiêu chuẩn tuyển nhân tài gì? Chính hai chữ hiếu liêm. Chọn lấy kẻ hiếu liêm, [nghĩa là] đứa nhỏ này hiếu thảo với cha mẹ, nhà thể hiếu thảo với cha mẹ thì đối với quốc gia sẽ thể tận trung, trung với đất nước, trung với nhân dân. Điều kiện thứ hai liêm khiết, liêm khiết sẽ chẳng tham ô. Quý vị thấy quốc gia chọn người để dùng dựa trên hai chữ: Một Hiếu, hai Liêm. Thi đậu huyện khảo (thi Hương) Tài, sẽ chẳng cần phải lo lắng về cuộc sống, quốc gia ban cho quý vị một phần bổng lộc, thuở ấy cấp gạo. Quý vị đọc Liễu Phàm Tứ Huấn, [sẽ thấy] tiên sinh Liễu Phàm thi đậu Tài, một năm được nhận chín mươi mấy thạch gạo, sống được, chẳng phải lo lắng. Chăm chỉ học hành, chuyên tâm học hành, lại tham gia khoa thi của tỉnh (tỉnh khảo, thi Hội). Đỗ khoa thi của tỉnh sẽ Cử Nhân. Những kẻ ưu tú, Cử Nhân đặc biệt ưu tú, đều thể được bổ nhiệm làm huyện trưởng, hiện thời gọi [chức vụ này] huyện thị trưởng, hoặc làm những mạc liêu[12] cao cấp, tương đương với chức thư trưởng hiện thời, mạc liêu bậc nhất. Lại đi thi, vừa nhậm chức, vừa học hành, cònthể tham gia cuộc khảo thí của quốc gia gọi Điện Thí (thi Đình), thi đỗ sẽ gọi Tiến Sĩ. Thời đó, Tiến Sĩ, Cử Nhân, Tài đều danh xưng học vị, học vị thời cổ, giống như các danh xưng học vị Tiến Sĩ, Thạc Sĩ, Học trong nhà trường hiện thời. Thi đậu Tiến thường được trung ương bổ nhiệm. Nhân tài của đất nước được bồi dưỡng như vậy. Mãi cho đến đời Mãn Thanh, gần như chế độ này được áp dụng trong hai ngàn năm. Hai ngàn năm đã thay đổi triều đại bao nhiêu lần, nhưng chế độ này chẳng biến đổi, bất luận kẻ nào làm hoàng đế đều dùng phương pháp này để chọn lựa nhân tài. Bởi lẽ, đây một chế độ rất tốt đẹp, đã duy trì Trung Quốc suốt hai ngàn năm, khiến lịch sử ghi chép [Trung Quốc một nước] ổn định lâu dài, đó [quy chế] hiếu liêm. Chế độ này hay lắm! Chế độ này rất trọng yếu, cho nên tuyển cử hiếu liêm. Hiếu liêm từ nhỏ đã học trong gia đình, học từ trường thục, cha mẹ dạy bảo, thầy dạy bảo quý vị: Trung hiếu nhất thể. Liêm không cho sẽ chẳng lấy, trong Phật pháp nói chẳng trộm cắp, quý vị mới thể tận trung giữ chức, giống như Mao Chủ Tịch đã nói: Toàn tâm toàn lực nhân dân phục vụ. Nếu chẳng hai chữ ấy, kẻ ấy chẳng nhân dân phục vụ, sẽ chính mình phục vụ, vấn đề ấy cùng nghiêm trọng.

      Do vậy, Khất Sĩ, người đọc sách, thật sự học vấn, đức hạnh, bản thân Thích Ca Mâu Ni Phật cũng khất sĩ. Vị khất thực, khất pháp. Khất thực vị xuất gia dĩ, khất cầu tự hoạt, bất sự kinh doanh, sở trữ tích. Vạn duyên câu phóng, nhất ý thanh tu, cố viết khất thực dưỡng thân (Tức khất thực, khất pháp. Khất thực đã xuất gia rồi thì xin ăn để nuôi thân, chẳng làm ăn, không tích chứa, bỏ hết vạn duyên, một dạ thanh tu, nên nói:Xin ăn để nuôi thân). Thân thể chúng ta sống trong thế gian này, cần phải điều kiện bản sinh tồn, điều đầu tiên ăn uống. Những người tu hành, đọc sách, tu dưỡng đạo đức, chẳng theo đuổi sự nghiệp kinh doanh, họ sống bằng cách nào? Sống bằng cách khất thực, đi xin từng nhà. Người Hoa trọn chẳng tôn trọng kẻ ăn mày, trong hội, ăn mày địa vị thấp nhất, gọi bần tiện, Bần () chẳng của cải, Tiện () chẳng địa vị hội. Nhưng người khất thực khác hẳn, học vấn, đức hạnh, nên tại Ấn Độ, hết sức tôn kính loại người này, chỉ cần gặp, nhất định sẽ cúng dường. thế, khất thực tại Ấn Độ vào thời cổ, cũng như tại Thái Lan hiện thời, theo Phật giáo Nam Truyền, không vấn đề gì, người ta thật sự cúng dường quý vị. Hiện thời, tại Trung Quốc, [khất thực] cũng rất khó khăn. Quý vị chẳng thể khất thực tại Hương Cảng, không ai cúng dường quý vị! thuở ấy tại Ấn Độ, theo phong tục, tập quán, mọi người rất tôn trọng những người [tu hành] ấy, cho nên họ sống theo cách ấy, giữa trưa ăn một bữa. Khất thực phải một ngày đi xin ba lượt sẽ làm phiền người ta, quý vị còn tu hành được nữa? Suốt ngày từ sáng đến tối ra ngoài tìm thứ để ăn, cũng chẳng tránh khỏi quá tham lam! thế, đức Phật quy định ăn một bữa, mọi người càng tôn kính.

      Ăn một bữa, đủ hay không? Đủ! Thân thể chúng ta một cỗ máy, để cỗ máy ấy hoạt động cần phải năng lượng. Khởi nguồn của năng lượng ẩm thực. Ẩm thực nguồn cội để bổ sung năng lượng; nhưng máy móc máy hao xăng, máy đỡ tốn xăng, rốt cuộc tiêu hao năng lượng chỗ nào? Chín mươi lăm phần trăm tiêu hao bởi vọng niệm. Phiền não vọng niệm tiêu hao năng lượng rất nhiều, quý vị phải bổ sung với một mức độ lớn; ba bữa vẫn chưa đủ, còn phải ăn điểm tâm. Nếu tâm địa thanh tịnh, không tạp niệm, một bữa đủ, khẳng định đã đủ rồi! Dẫu lao tâm, lao lực, khối lượng công việc nhiều đến mấy, tiêu hao năng lượng ít ỏi. Năm xưa tôi cầu học, thân cận thầy tại Đài Trung, tức lão Bỉnh Nam, khối lượng công việc của lão nhân gia, nói chung, tối thiểu phải bằng năm người, thầy phải làm công việc của năm người. Nếu quý vị muốn gặp thầy, nhất định phải hẹn trước một tuần. Nếu không, thầy chẳng thời gian, thời gian của thầy đã sắp xếp kín hết rồi. Khối lượng công việc to như thế, mỗi ngày thầy chỉ ăn một bữa, bắt đầu từ năm ba mươi mấy tuổi, mãi cho đến khi chết già, mấy chục năm! Mỗi bữa lại còn ăn rất ít, mạn đầu xíu. Mỗi bữa thầy ăn hai cái mạn đầu (bánh bao không nhân), mỗi cái to bằng quả trứng gà! Thưa quý vị, tiền chi dụng mỗi ngày hai đồng Đài Loan, một tháng sáu mươi đồng. Sáu mươi đồng chỉ bằng khoảng một dollar mấy chục xu. Thời đó, hình như một dollar bằng bốn chục đồng Đài Loan, một dollar rưỡi tiền chi dụng hằng tháng của thầy. Không dễ dàng! tại gia sĩ, nhưng lão nhân gia hành trì cả đời giống hệt như người xuất gia, nhưng chẳng mặc y phục của người xuất gia!

      Tôi theo học với lão nhân gia tại Đài Trung, trước khi đến Đài Trung, tôi đã học Phật khoảng hơn một năm. Tôi học Phật nửa năm bèn ăn chay, giữ trường trai, khoảng một năm rưỡi, tôi luyện tập bỏ bữa tối, mỗi ngày ăn hai bữa. Đến Đài Trung, thấy thầy [hành trì như vậy], tôi nói tôi phải nên học theo Ngài, cũng học giữa trưa ăn một bữa. Tôi học đến tháng thứ tám mới trình với thầy, thưa với thầy, tôi nói: “Mỗi ngày con ăn một bữa”. [Thầy hỏi]đã bao lâu?” “Tám tháng rồi!” “Thế nào? Thân thể cảm giác chẳng thoải mái hay chăng?” “Thưa không! Rất bình thường. Thầy vỗ bàn:Hãy vĩnh viễn giữ như thế. sao? Cuộc sống đơn giản, suốt đời chẳng phải cầu cạnh ai. Cổ nhân Trung Quốc nói rất hay: Nhân đáo cầu, phẩm tự cao (con người đạt tới mức không mong cầu, phẩm hạnh tự cao), buông xuống vạn duyên! Nhưng mỗi bữa tôi ăn nhiều hơn thầy, rốt cuộc trẻ tuổi, tu dưỡng chẳng bằng thầy, khối lượng công việc của tôi chẳng nhiều như thầy, nhưng mỗi bữa tôi phải ăn ba cái mạn đầu. Chi dụng mỗi ngày phải dùng tới ba đồng, một tháng tốn chín mươi đồng, còn thầy sáu mươi đồng được rồi, chúng tôi không cách nào, làm không được! Do vậy biết: Tâm vị lão nhân ấy thanh tịnh, chẳng tạp niệm. Cụ bảo tôi: Cụ bắt đầu [hành trì như vậy] khoảng ba mươi sáu, ba mươi bảy tuổi. Khi tôi quen biết thầy, cụ đã bảy mươi tuổi, cụ mất năm chín mươi bảy tuổi. Tôi cùng với thầy, cụ đã bảy mươi thoạt nhìn như người năm mươi mấy tuổi. Chúng ta còn thấy tấm hình do ông Giang Dật Tử chụp cho thầy ngồi dưới một gốc cây to, cụ ngồi nơi đó, hình chụp năm cụ chín mươi tuổi, quý vị thoạt nhìn ngỡ cụ chừng sáu mươi mấy tuổi. thế, biết: Khỏe mạnh chẳng do ăn những thứ tốt lành. Thầy ăn những thứ cùng đơn giản, do chính mình nấu, chẳng ai chăm sóc, tự mình chăm sóc mình, ăn do chính mình lo liệu, tự mình nấu cơm, rửa chén, rửa niêu, giặt quần áo. Chúng tôi tiếp xúc, không thể chẳng bội phục cụ. Chín mươi lăm tuổi cụ mới chịu để cho hai đồng học chăm sóc, trước khi chín mươi lăm tuổi, chẳng ai chăm sóc, cho thấy thân thể cụ khỏe mạnh nên mới thể tự lo liệu. thế, thầy đã nêu gương cho chúng tôi. Đức Phật dạy chúng ta khất thực nuôi thân, quý vị mới thật sự thể buông xuống được, thật sự chẳng phiền não.

      Khất pháp giả, tham phỏng đạo, lộ túc phong xan, tuân cầu diệu pháp, kỳ thành thánh quả, cố viết, khất pháp dưỡng tâm (Khất pháp tìm thầy hỏi đạo, nằm sương dãi gió, tìm cầu diệu pháp mong thành thánh quả, nên nói là:Khất pháp để dưỡng tâm). Người sống trong thế gian, thật sự giác ngộ thì điều trọng yếu nhất? Đạo trọng yếu nhất. Nhà Phật nói như vậy, cổ thánh tiên hiền Trung Quốc cũng nói một câu, lúc đó, Phật pháp chưa truyền tới Trung Quốc. Quý vị thấy Phu Tử đã nói: Triêu văn đạo, tịch tử khả hỹ (sáng nghe đạo, tối chết cũng đành), chẳng sống uổng; bởi lẽ, cổ nhân học hành trọng đạo. Người hiện thời học hành, hiện thời tới trường lẽ nào? Để trong tương lai sẽ công việc tốt trong hội, phát đạt, vinh hoa, phú quý, nhằm mục đích này. Bậc thánh hiền không quan niệm này, Khổng Tử cả đời thật sự sống nghèo hèn, chẳng của cải, cũng không địa vị, dân nghèo. Ngài làm quan Khấu[13] nước Lỗ, nước Lỗ hiện thời huyện Khúc Phụ, Tế Nam nước Tề. Thuở đó, nước Lỗ một huyện hiện thời, vua nước Lỗ chẳng phải huyện trưởng hiện thời ư? Làm quan Khấu nước Lỗ ba tháng, bị người ta hạ bệ, sao? Ngài muốn làm một vị quan tốt. Quý vị muốn làm một ông quan tốt, vì nhân dân phục vụ; còn kẻ khác muốn công danh, phú quý của chính mình, quý vị sẽ đụng chạm kẻ ấy, chẳng giống như kẻ ấy, còn thể tiếp tục làm nữa hay chăng? Do vậy, Khổng Tử thông minh, từ chức, không làm nữa, về nhà dạy học, lo giảng dạy, dạy năm năm, qua đời. [Sau này], Hán Đế chấp nhận đề nghị của Đổng Trọng Thư, Hán Đế muốn thống trị quốc gia, dạy bảo dân chúng; lúc ấy, đối với chư tử bách gia, dùng phương pháp của ai để dạy? Đổng Trọng Thư[14] đề nghị Khổng Mạnh, Hán Đế chấp nhận, bèn dùng đạo Khổng Mạnh làm quan niệm chủ yếu để giáo dưỡng nhân dân trong nước, tôn Khổng Tử làm Vạn Thế Biểu. Khổng Tử lúc sống nằm mộng cũng chẳng nghĩ tới! Nếu nghĩ đến chuyện này, cần phải làm quan? Cần phải chu du liệt quốc? Giáo học thật hay! Chuyện này người đã nghĩ tới, Thích Ca Mâu Ni Phật đã nghĩ tới. Quý vị thấy Ngài ba mươi tuổi khai ngộ, sau khi khai ngộ không làm quốc vương, dạy học, dạy suốt bốn mươi chín năm, bảy mươi chín tuổi viên tịch. Phật pháp gọi con đường mà bậc thánh hiền đã đi thành Phật chi đạo (con đường thành Phật). Khổng Tử đến tuổi già bất đắc chí, một dạ mong làm quan để thi thố quan niệm ái dân, ái quốc của Ngài, nhưng chẳng ai dùng, bất đắc trở về quê nhà dạy học. Về quê hương năm ấy, Ngài đã sáu mươi tám tuổi, bảy mươi ba tuổi mất, dạy học năm năm. Quý vị thấy Ngài dạy học năm năm, trở thành Vạn Thế Biểu, đấy sự nghiệp thánh hiền. Tại Ấn Độ, [điều này được gọi] thành Phật chi đạo, tại Trung Quốc sự nghiệp thánh hiền. Chẳng phải bậc thánh hiền sẽ chẳng thấy!

Nói theo bây giờ, con đường này rất khó đi, quý vị thiếu quyết tâm, không nghị lực, chẳng thể chịu khổ, sẽ đi chẳng lọt! Không chỉ chịu khổ, còn phải chịu hết mọi nỗi khuất nhục thì mới thể đi trót lọt. Tôi đi theo con đường này năm mươi chín năm, rất nhiều đồng học biết, chẳng phải dễ đi. Trước lúc bảy mươi tuổi, người đến kiếm chuyện nói chung đặc biệt nhiều. Sau bảy mươi tuổi, đỡ hơn một tí, bảy mươi tuổi, sắp đi, Khổng Tử bảy mươi ba tuổi đã mất, bảy mươi tuổi gần như xong rồi! Mọi người buông tha quý vị, chứ trước khi bảy mươi tuổi, người ta chẳng buông tha! Do vậy, con đường này cũng rất khó đi, sau khi đi hết, quý vị sẽ thành Phật, thành Bồ Tát, thành thánh, thành hiền. Nếu quý vị chẳng thể chịu khổ, bị kẻ khác chướng ngại, chướng nạn, nói thật ra, chẳng phải ai khác, chính mình. Bất luận kẻ khác hủy báng cũng thế, làm nhục cũng thế, hãm hại cũng thế, đều tốt, đều các trạm kiểm soát liên tiếp, khảo thí đấy! Nếu quý vị vượt qua được, [những người ấy] sẽ những vị thầy tốt. Không những người đó, làm sao quý vị được mài giũa nên người? Quý vị làm sao thể bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền Định, Bát Nhã? Đều do vượt qua những trạm kiểm soát thành. Sau đấy, ta sẽ cảm ơn những người ấy; không họ, làm sao quý vị thành tựu cho được?

      Xưa nay, trong ngoài nước, nói đến chuyện thành tựu thuận buồm xuôi gió, tuyệt đối chẳng tìm được, ai được vậy? Phật cũng không được! Quý vị thấy cả đời Thích Ca Mâu Ni Phật, bao nhiêu kẻ đến kiếm chuyện! Trong Lục Quần tỳ-kheo[15], trong nhà bất hòa, trong các đệ tử, họ gây ra rất nhiều vấn đề. Ngoài lục ngoại đạo, nội ngoại giáp công. Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện cho chúng ta thấy: Như như bất động, dùng Định, dùng Huệ để hóa giải những chướng nạn ấy. Nay chúng ta muốn cầu học, khó khăn, từ xưa đến nay chưa hề ngoại lệ, nhất trong thời đại hiện tại càng khó khăn, thiếu công phu nhẫn nhục, chẳng bố thí, trì giới [sẽ càng khó khăn hơn], ba thứ ấy bản. Phải nhẫn nhục, nếu không, quý vị sẽ chẳng thể thành tựu. Thật sự phát tâm, nhằm lúc khó khăn hiện tiền, chúng ta chỉ cách cầu Phật, Phật lực gia trì, tự nhiên người hảo tâm đến giúp đỡ, hộ trì chúng ta; nhưng bản thân chúng ta tâm niệm phải đoan chánh, kiên định, hễ mảy may nào lệch về phía tiếng tăm, lợi dưỡng xong luôn, đấy gì? nghiệp chướng của chính mình! Bao nhiêu kẻ thất bại chỗ này, thật đấy, công phu mấy chục năm bị hủy trong một buổi, rất đáng tiếc! Hễ bị hủy bèn phải luân hồi, lại chẳng biết đến đời nào, kiếp nào, quý vị mới được làm thân người, lại gặp gỡ Phật pháp, quay lại, thử coi quý vị thể xuôi lọt trong đời ấy hay không? Đời nào thể xuôi lọt thì quý vị sẽ thành tựu trong đời ấy. Trong thuận cảnh, tâm mảy may tham luyến, xong rồi! Khi gặp nghịch cảnh đôi chút tâm oán hận, cũng xong luôn! Quý vị muốn thành công, chỉ một tấm lòng cảm ơn. Thuận cảnh, thiện duyên, cảm ơn; nghịch cảnh, ác duyên, vẫn cảm ơn, quý vị mới thể thành tựu.

      Tôi vừa mới nói với quý vị, về sau, Hán Đế chọn lựa nhân tài cho quốc gia, chọn người vừa hiếu vừa liêm. Trong Phật môn, cũng chẳng ngoại lệ, hai chữ ấy thiếu sót một chút cũng không được. Đạo thánh hiền văn hóa truyền thống của Trung Quốc, đạo thánh hiền cũng bao gồm Phật đạo, chẳng ngoại lệ! Nho, Thích, Đạo muốn thành tựu, phải vun bồi căn cội hiếu liêm thật sâu. căn cội sâu xa ấy, quý vị mới thể trì giới, trì giới gì? Giữ quy củ, quý vị mới thể nhẫn nhục. Đầy đủ những điều kiện ấy, coi như quý vị đã phân nửa điều kiện để thành công. Trong cuộc sống thường nhật, phải tiết kiệm, chính muốn vun bồi phước. phước thì phải trao cho đại chúng hưởng, chớ nên tự hưởng. Người khổ nạn trong thế gian này nhiều lắm, hãy thường nghĩ đến họ. Phải khiêm hư, phải nhún nhường, thật sự hóa giải, tiêu trừ tập khí ngạo mạn của chính mình. Người khác tập khí ngạo mạn, chẳng thể nói ta không có, trong niệm]ta không đã tràn ngập ngạo mạn, nhưng chính mình chẳng biết. sao nói tràn ngập ngạo mạn? theo như đức Phật đã dạy, ngạo mạn bẩm sinh, kể từ đời nào? Kể từ khởi nguyên của sanh mạng. Trong kinh, đức Phật đã giảng rất hay: Nhất niệm bất giác bèn minh, từ trong tự tánh biến thành một vọng tâm, tức A Lại Da. Trong A Lại Da, trọn đủ tham, sân, si, mạn. Quý vị thấy Mạt Na chính mình, chính mình do đâu có? Phát sanh đồng thời với trụ.

bốn thứ thường đi theo tứ đại phiền não (tham, sân, si, mạn), thứ nhất Ngã Kiến, chấp trước thân ta. Trong A Lại Da, không chỉ chấp trước thân, còn chấp trước ý thức ta, chúng ta thường gọi ý thức linh hồn, hoặc gọi linh tánh. sao linh tánh vẫn chấp trước? Trong tứ thánh pháp giới, gọi linh tánh, hay A Lại Da, hay Mạt Na, [đều do] chưa chuyển thức thành trí. Chuyển Mạt Na thành Bình Đẳng Tánh Trí gì? minh tâm kiến tánh, Viên giáo Trụ Bồ Tát trong Hoa Nghiêm, vượt thoát mười pháp giới. Chỉ cần chưa vượt thoát mười pháp giới, vẫn dùng A Lại Da để xử sự. Bất quá, trong tứ thánh pháp giới, sử dụng A Lại Da chánh đáng, sao sử dụng chánh đáng? Hoàn toàn chiếu theo giáo huấn của Phật, Bồ Tát, thật sự làm được. Cho nên người ấy thuần chánh, giống như Phật, nhưng chưa dùng chân tâm, dùng A Lại Da. Nếu chuyển thức thành trí, bèn vượt thoát mười pháp giới, sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai. Thật đấy, chẳng giả đâu! vậy, trong tứ thánh pháp giới, Bồ Tát, Phật vẫn dùng A Lại Da, vẫn thức thứ sáu, tức ý thức phân biệt, thức thứ bảy Mạt Na chấp trước, vẫn những thứ ấy, nhưng rất nhạt, chúng ta nhất định phải biết điều này. Khi nào ta chẳng còn ngạo mạn? Khi minh tâm kiến tánh, quý vị thoát ly mười pháp giới sẽ thể nói như vậy, tham, sân, si mạn đều không có. Quý vị chưa vượt thoát mười pháp giới, làm sao thể nói chẳng tham, sân, si, mạn? Chúng ta hiểu đạo này, mới thật sự nhận biết chính mình. Cổ nhân Trung Quốc nói: Con người phải tự hiểu mình, tự mình phải nhận mình, ta phàm phu, chẳng phải thánh nhân.

      Phật, Bồ Tát trong mười pháp giới cũng chẳng phải thánh nhân. Quý vị thấy trong giáo pháp Đại Thừa, [các hữu tình] trong lục đạo gọi nội phàm, lục đạo giới tuyến. Ngoài lục đạo, tứ thánh pháp giới gọi ngoại phàm, vẫn phàm phu, nhưng phàm phu ngoài lục đạo. Nhất định phải đoạn sạch thỉ minh, vượt thoát mười pháp giới thì mới thánh nhân. Trong Phật môn, họ được gọi tiểu thánh, A La Hán [là tiểu thánh], đó tôn kính họ, họ chưa phải thánh thật sự, sao? Trong ba loại đại phiền não (Kiến Tư, Trần Sa Minh), họ chỉ đoạn Kiến Tư. Đoạn Kiến phiền não, chẳng chấp trước pháp thế gian xuất thế gian, nhưng còn phân biệt, vọng tưởng, nên gọi họ tiểu thánh. Nếu lên cao hơn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật thuộc trong tứ thánh pháp giới, cao hơn tiểu thánh một chút, chúng ta thường gọi chung các Ngài thánh nhân, chẳng phải đại thánh. Đại thánh gì? Phá minh, vượt thoát mười pháp giới, chứng đắc Trụ trong Viên Giáo, đấy đại thánh. Trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại được gọi đại thánh, chúng ta gọi họ Bồ Tát Ma Ha Tát, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại Ma Ha Tát. Phật, Bồ Tát trong mười pháp giới được gọi Bồ Tát. Thêm vào chữ Ma Ha Tát thì chẳng phải trong mười pháp giới, thuộc về Nhất Chân pháp giới, Bồ Tát trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Đối với người học giáo pháp Đại Thừa, đây kiến thức thông thường, kiến thức bản, chớ nên không biết. Biết những điều này, chúng ta cũng rất khiêm hư, biết chúng ta thật sự phàm phu, đúng phàm phu, làm sao thể ngạo mạn cho được? thế, nhất định phải học khiêm ty, đạo chỗ này. Khiêm ty thì mới thể khất pháp dưỡng tâm.

      Những người nào dạy chúng ta? Phải biết, phải học theo Thiện Tài đồng tử, ai thiện tri thức? Trừ ta ra, mỗi nhân đều thiện tri thức. Thiện Tài đồng tử thành tựu như thế đó! Thuận cảnh, nghịch cảnh, thiện duyên, ác duyên, thảy đều thiện tri thức. Thanh Lương đại đã nói rất ràng, năm mươi ba lần tham học trải qua sự việc để luyện tâm, luyện tâm gì? Luyện thanh tịnh, bình đẳng, giác. Hoàn cảnh thuận nghịch, hoàn cảnh nhân sự (quan hệ giữa con người với nhau) thiện ác, toàn bộ hoàn cảnh nhân sự đều thiện tri thức. Trong tâm mục của Thiện Tài đồng tử, thiện tri thức Phật, vị thiện hữu ấy Phật, chẳng phải Bồ Tát, [thiện hữu là] chư Phật Như Lai thị hiện chỉ dạy ta. Đấy học đạo sống động, chẳng phải trên văn tự. Người ấy biểu hiện rất khá, thiện nhân, chúng ta thấy người ấy trong tâm hoan hỷ, thôi rồi! Hỷ gì? Hỷ cảm tình, thất tình, ngũ dục, mừng giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham muốn, quý vị động tâm thì sao? Động tâm bèn bị nhiễm dơ. Thấy thiện hạnh, trong tâm thật sự khởi lòng bắt chước, tôn kính, nhưng chớ nên tham luyến. Người ấy biểu hiện rất đáng ghét, gặp mặt quý vị liền căm hận, chửi mắng, đánh đập quý vị, đó thiện tri thức, chớ nên tâm oán hận. Hễ tâm oán hận, thôi rồi, quý vị lại dấy động thất tình ngũ dục. Do vậy, trong hoàn cảnh, trong quan hệ giữa con người với nhau, phải đoạn gì? Đoạn sạch thất tình ngũ dục, chẳng phải quý vị đã thành Phật ư? Nếu quý vị thất tình ngũ dục, sẽ chẳng thoát khỏi lục đạo, ngay cả tiểu thánh cũng không thể chứng đắc. Đoạn thất tình ngũ dục, chứng tiểu thánh, thoát lục đạo. Thoát lục đạo, còn tứ thánh, vẫn phải rèn luyện trong tứ thánh. Đó rèn luyện vi tế.

      Đối với những [rèn luyện] vi tế ấy, cũng chẳng động tâm, thật sự vĩnh viễn trụ trong Lượng Thọ. Cái nhân để tu trong kinh Lượng Thọ thanh tịnh, bình đẳng, giác. Quý vị thường trong thanh tịnh, bình đẳng, giác, đó nơi chốn chúng ta vừa mới đọc: Thành Vương Xá, trong núi Kỳ Quật, tượng trưng cho ý nghĩa này. Tâm thật sự thường trụ trong thanh tịnh, bình đẳng, giác, sẽ thành công! Quý vị mới thể thật sự cảm ơn hết thảy hoàn cảnh, cảm ơn hết thảy nhân sự. Sáu căn của quý vị tiếp xúc cảnh giới sáu trần gì? Toàn Phật, Bồ Tát, quý vị đã thấy Phật, thành tựu rồi! Những điều ghi chép trong kinh Phật chính sách giáo khoa. Đấy gì? Hướng dẫn, chỉ dẫn quý vị. Công phu chân thật chỗ nào? Trong cuộc sống. Quý vị thành tựu, đoạn phiền não, chứng Bồ Đề chứng đắc trong cuộc sống, chẳng liên quan đến sách vở. thế, giống như Lục Tổ đại đã nói, Ngài nghe tỳ-kheo-ni Tận Tạng niệm kinh Niết Bàn. Niệm xong, Tổ giảng đạo cho ta, giảng đến nỗi tỳ-kheo-ni cùng vui vẻ, cầm kinh bổn đến hỏi, hướng về Tổ thỉnh giáo. Ngài nói:Ta không biết chữ. [Ni hỏi]:Không biết chữ, cớ sao Ngài giảng hay như thế?” “Điều ấy chẳng dính dáng tới chuyện biết chữ hay không biết chữ!Sống động! Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh gì? Nếu quý vị nghĩ kinh bổn kinh Hoa Nghiêm, trật rồi, đó chẳng phải kinh Hoa Nghiêm. Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm toàn thể trụ, y báo chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, sống động! Cuộc sống sinh động Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Đại Phương Quảng Thể - Tướng - Dụng của tự tánh, lẽ nào nằm trong sách vở? Đâu đạo ấy!

      Chúng ta học Phật, chết cứng nơi sách vở, quý vị làm sao thể khai ngộ cho được? Bởi lẽ, sách vở hướng dẫn, giống như chúng ta đi đường phải xem bản đồ, bản đồ chẳng phải nơi đó. Quý vị muốn đến nơi ấy, nhưng chẳng thật sự tìm cách đến nơi đó, chỉ cần nhìn vào [bản đồ], đến được hay chăng? Quý vị vứt bỏ bản đồ thì mới đi đến được. Con người hiện thời cố gắng học vận dụng sống động, lời ấy rất ý vị, chúng ta phải học vận dụng sống động, Phật pháp chỗ nào? Phật pháp ngay trong cuộc sống, trong mặc áo, ăn cơm, trong đãi người, tiếp vật. Đại Thừa nơi đâu? Đại Thừatrong công việc. thế, Thích Ca Mâu Ni Phật thuở ấy được nhiều người tôn kính như vậy, quý vị thấy pháp hội nàyhơn hai vạn người [tham dự]. [Con số] hơn hai vạn [chỉ] người, mắt chúng ta không thấy những thính chúng chẳng phải người, còn [những thính chúng thuộc các] chiều không gian khác biệt. Chiều không gian khác biệt cũng thể coi như chư đại Bồ Tát, Thanh Văn, A La Hán, những vị này chẳng thuộc trong lục đạo. Trong lục đạo còn chư thiên, Dục Giới thiên, Tứ Thiền Thiên, Phạm chúng Tứ Thiền Thiên. [Kinh văn] không nhắc tới Tứ Không Thiên, chư thiên Tứ Không Thiên chẳng đến. Tứ Không Thiên còn gọi Trường Thọ Thiên, họ chẳng đến nghe pháp. Bát bộ quỷ thần cũng thuộc Dục Giới, đều những [hữu tình] chúng ta chẳng thấy được! Chẳng biết những thính chúng không trông thấy nhiều gấp số thính chúng ta thấy được trong hiện tiền bao nhiêu lần? Đến học đều học Phật pháp sống động, chẳng phải học thứ chết cứng, nhất định phải biết điều này. Do vậy, Khất hai ý nghĩa ấy, quý vị thấy: Khất thực dưỡng thân, khất pháp dưỡng tâm,tâm ấy chân tâm, chẳng phải vọng tâm. Đó ý nghĩa thứ nhất.

      Ý nghĩa thứ hai Phá Ác, bởi tỳ-kheo ba ý nghĩa, Ác gì? Ác phiền não. Chánh huệ quán sát, phá phiền não ác, Kiến Hoặc tận (chánh huệ quán sát, phá phiền não ác, Kiến Hoặc hết sạch), Hoặc hoặc, đoạn hết Kiến Hoặc. Kiến gì? Kiến giải sai lầm, quý vị thấy sai; quý vị suy nghĩ sai lầm. Hằng ngày quý vị hoàn toàn nhìn sai, nghĩ trật. sao sai trật? Quý vị chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi trật. Nếu quý vị cách nhìn chính xác, không sai, cách nghĩ cũng chẳng trật, bèn thoát lục đạo, tiến vào tứ thánh pháp giới. Chỉ cần quý vị trong lục đạo, chúng ta phải thừa nhận chính mình thấy trật, nghĩ sai. Đức Phật ban cho chúng ta mấy trường hợp cụ thể, quý vị hãy xem, trong kinh nói đến tám mươi tám thứ [phiền não]. Để dạy kẻ học, đức Phật lại đơn giản hóa, quy nạp tám mươi tám thứ thành năm loại lớn: Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến, Kiến. Kiến () quý vị nhìn sai, kiến giải sai lầm. Đầu tiên, phải quý vị nghĩ thân này ta? ta, sẽ tự tự lợi, tiếng tăm, lợi dưỡng, thị phi, nhân ngã, đó sai lầm thứ nhất. Sai lầm thứ hai Biên Kiến. Biên Kiến gì? Đối lập. Ta đối lập với người khác, đối lập với sự, đối lập hết thảy vạn vật. Trong tự tánh thanh tịnh viên minh thể, không Thân Kiến, cũng chẳng Biên Kiến. Năm thứ Kiến Hoặc ấy không có, năm thứ Hoặc cũng chẳng có, Hoặc tưởng sai lầm.

      Năm thứ Hoặc gì? Tham, sân, si, mạn, nghi. Nghi đây nghi hoặc thánh giáo, trên thực tế nghi hoặc đối với tất cả hết thảy các pháp, trong đó, trọng yếu nhất thánh giáo. Thánh giáo quyết định chính xác, người ta đã minh tâm kiến tánh, từ tự tánh nói ra, lẽ đâu chẳng chính xác? Chúng ta chưa kiến tánh, thấy người ta do kiến tánh nên thấy những thứ khác với chúng ta, [bèn cho rằng] người ấy trật rồi, ta chẳng sai, đó gọi Nghi. Khi nào đoạn sạch Kiến phiền não, quý vị “siêu xuất tam giới” (vượt thoát tam giới). Tam giới Dục Giới, Sắc Giới, Sắc Giới, tức lục đạo. Vượt thoát tam giới vượt thoát lục đạo. Ngoài lục đạo tứ thánh pháp giới, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, đó ngoại phàm”, tức phàm phu ngoài tam giới. Tuy đã đoạn Kiến Tư, nhưng chưa đoạn Trần Sa, chưa đoạn minh, vẫn phiền não, nhưng không phiền não thô nặng, chứ vi tế phiền não vẫn còn! thế, tỳ-kheo ý nghĩa Phá Ác. Nay chúng ta tập khí phiền não nặng nề ngần ấy, thể gọi tỳ-kheo được chăng? Tỳ-kheo thật sự làm, [tức là] thật sự đoạn phiền não. Dùng phương pháp gì? Rất nhiều phương pháp, tám vạn bốn ngàn pháp môn đều phương pháp, nhưng đối với người học, quan trọng nhất trì giới, bắt đầu từ chỗ ấy. Quý vị chẳng trì giới, làm sao thể đoạn phiền não?

      Do trong nhiều năm như vậy, chúng tôi đã đến nhiều nơi trên thế giới, phạm vi tiếp xúc rất rộng, thấy các đồng tu tại gia chẳng thể hành Thập Thiện, đồng tu xuất gia chẳng thể thực hiện Sa Di Luật Nghi, vấn đề này nghiêm trọng lắm. Nghiêm trọng đến mức độ nào? Chẳng phải đệ tử Phật thật sự! Đệ tử Phật thật sự phải nghiêm túc làm. Người khác làm hay không, chẳng ăn nhằm đến ta, ta phải làm, quý vị mới thể thành tựu. Chớ nên nói người khác không làm, ta làm để làm gì? Ta làm, chẳng phải bị thua thiệt ư? Vậy quý vị sai mất rồi! Trên thực tế, quý vị làm sẽ chiếm tiện nghi, kẻ khác chẳng làm, sẽ bị thua thiệt, thua thiệt kẻ ấy. Kẻ ấy bị thua chỗ nào? Bị thua chỗ phải tiếp tục luân hồi trong lục đạo, kẻ ấy bị thua ngay chỗ đó. Quý vị thật sự làm, luân hồi một lần này, sau đấy chẳng còn luân hồi nữa, chẳng còn làm chuyện ngốc nghếch nữa! Nhất gặp được pháp môn Tịnh Độ, đời sau ta quyết định sanh về thế giới Cực Lạc, lục đạo nhường cho quý vị rong chơi, ta chẳng còn chơi đùa với quý vị nữa, phải ý niệm ấy thì mới được! Chúng ta đến đâu? Tới thế giới Cực Lạc, cùng vui chơi với chư Phật, Bồ Tát, chư thượng thiện nhân, đó đúng. Tâm ấy phải kiên định, kiên định thì quý vị mới chịu buông xuống. Chưa buông xuống được sẽ chẳng thể vãng sanh, thật đấy, chẳng giả đâu! Phải buông xuống lúc nào? Buông xuống ngay trong hiện tại, sao? Chúng ta chẳng biết sẽ chết lúc nào, trong kinh, đức Phật đã dạy chúng ta: Mạng người trong hơi thở”, một hơi thở không hít vào được sẽ sang đời sau, cho nên phải buông xuống ngay trong hiện tại. Buông xuống sẽ thật sự tự tại! Buông xuống, phiền não sẽ nhẹ nhàng, trí huệ tăng trưởng. vậy, quý vị thấy tỳ-kheo vượt thoát tam giới, vượt khỏi lục đạo luân hồi, nhưng chưa vượt thoát mười pháp giới.

      Ý nghĩa thứ ba Bố Ma, ma đây ma vương. Như Niết Bàn thuyết: - Ma tánh cấu (như kinh Niết Bàn nói:Tánh ma nhơ bẩn), tánh ma ô nhiễm, cấu () ô nhiễm. Cứ Trung Hoa Đại Tự Điển, Cấu hữu bát nghĩa, kim thủ kỳ nhất, cấu giả ác (theo Trung Hoa Đại Tự Điển, chữ Cấu tám nghĩa, nay lấy ý nghĩa thứ nhất thì Cấu ác), chẳng lành! Tệ, kỵ tha thắng kỷ (Tệ đố kỵ kẻ khác hơn mình), nay chúng ta nói [cấu tệ] ngạo mạn, đố kỵ; người khác hơn mình, trong tâm khó chịu, đó sai lầm. Tâm đố kỵ cũng bẩm sanh, quý vị rất chú tâm quan sát, sẽ thấy gì? Trẻ nhỏ ba bốn tháng, con, còn chưa biết đi, còn đang bò. Quý vị để hai đứa cạnh nhau, chúng lớn như nhau, quý vị cho đứa trẻ này một miếng đường để ăn, đứa bên cạnh trông thấy, ghen tỵ, cũng rất khó chịu, quý vị quan sát cẩn thận [sẽ thấy]. thế, đố kỵ, ngạo mạn phiền não bẩm sinh, tập khí nhiều đời nhiều kiếp. Nếu không khéo rèn luyện, dạy dỗ từ nhỏ, làm sao đoạn được phiền não? Người chẳng tâm đố kỵ, tâm thanh tịnh. Trong tâm thanh tịnh không đố kỵ, trong tâm bình đẳng không ngạo mạn, đấy Tánh Đức. Trong hết thảy chỗ, hết thảy mọi lúc, gặp những sự việc, trong tâm vẫn khởi lên ý niệm ấy, thì phải ngay lập tức hồi quang phản chiếu, công phu của chúng ta thua kém quá xa. Hồi quang phản chiếu giác, cổ đại đức đã nói: Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm, hễ giác, quý vị bèn quay lại, sanh lòng hổ thẹn, sám trừ nghiệp chướng.

      Sám trừ nghiệp chướng gì? Nay mọi người gọi phát lộ sám hối. Sau khi phát lộ sám hối, gặp chuyện vẫn làm y hệt, làm y hệt xong rồi mai lại phát lộ, hằng ngày phát lộ [có ích đâu]. Chư vị phải biết: Khi thật sự sám hối sẽ chẳng còn tạo nữa. Phát lộ sám hối lợi chăng? Phát lộ sám hối biểu diễn trên sân khấu nhằm khuyên người khác, rất tốt, dùng chính mình làm gương để khuyên dạy người khác, đấy tốt, tự lợi, lợi tha; nhưng lợi ích chân thật sau đấy không tạo nữa. Khổng phu tử đã nói bất nhị quá, [nghĩa là] chỉ phạm khuyết điểm một lần, chẳng còn lặp lại nữa. Phu tử tán thán, Ngài học trò đông ngần ấy, chỉ một người làm được, [tức là] Nhan Hồi. Ngài khen ngợi Nhan Hồi bất nhị quá. Do vậy biết: Những học trò khác đều không làm được, quý vị mới biết chuyện này khó khăn, chẳng dễ dàng. Trong Phật môn, A La Hán mới thể bất nhị quá, chẳng phải phàm nhân. Do vậy, đã phát tâm xuất gia, phải thật sự làm. Căn bệnh này cùng sâu, thể sanh ra cả đống ác nghiệp; do vậy, tâm đố kỵ cùng xấu! Chớ nên coi thường nó, phải thống thiết đổ công sức nơi đây! Ma như vậy đấy, ngạo mạn, đố kỵ; do vậy, hắn ma, chẳng phải Phật. Cố hoài khủng bố (nên ôm lòng sợ hãi), thấy người khác tốt đẹp hơn mình, trong tâm khó chịu, sợ người khác lại hơn mình. Hựu cụ kỳ nhân, đa hóa chúng sanh (lại sợ người ấy giáo hóa nhiều chúng sanh), người tu hành ấy, tức tỳ-kheo, giáo hóa chúng sanh, chúng sanh đều theo người ấy, người ấy nhiều tín đồ, ma lại sanh lòng đố kỵ. sao? Hắn tranh giành tín đồ với quý vị, chẳng nề bất cứ thủ đoạn nào để lôi kéo tín đồ, phá hoại, chướng ngại quý vị, khiến cho tín đồ của quý vị nẩy sanh hiểu lầm, xa lìa quý vị, để hắn lôi kéo, làm chuyện như vậy. thế, hắn sợ người [tu hành] ấy. Đa hóa chúng sanh, đồng xuất sanh tử, không kỳ cảnh giới (giáo hóa nhiều chúng sanh, cùng thoát sanh tử, trống không cảnh giới của ma), trống không cảnh giới của ma gì? Người trong ma giới ít đi. Phật giới đông người hơn, hắn sợ điều này. Cố sanh khủng bố (nên sanh lòng sợ hãi).

      Nhược nhân xuất gia thọ giới, yết-ma thành tựu, địa hành dạ-xoa, không hành dạ-xoa, thiên hành dạ-xoa, triển chuyển tán thán, thanh truyền Dục Giới Lục Thiên, ma văn tâm bố (Nếu người xuất gia thọ giới, yết-ma thành tựu, địa hành dạ-xoa, không hành dạ-xoa, thiên hành dạ-xoa lần lượt truyền nhau tán thán, tiếng [ca ngợi] lên đến tận tầng trời thứ sáu trong Dục Giới, ma nghe tiếng, tâm sợ hãi). Ma thiên vương của Đệ Lục Thiên, ma vương chính thiên vương cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên. sao? Người ấy phát tâm xuất gia thọ giới, yết-ma hoàn thành nghi thức thọ giới, quỷ dạ-xoa lần lượt truyền nhau tán thán, Đệ Lục Thiên Tha Hóa Tự Tại thiên vương nghe biết, trong tâm Tha Hóa Tự Tại thiên vương cũng rất khó chịu. ông ta lòng đố kỵ, ghen ghét Phật, Bồ Tát sẽ độ thoát từng chúng sanh trong lục đạo, người thuộc quyền thống trị của ông ta sẽ dần dần ít đi, Dục Giới do ông ta thống lãnh. Hiện thời quý vị phải biết, ma vương rất sung sướng, rất hoan hỷ, sao? Xuất gia thọ giới chẳng thật, giả, ai thể trì giới? Ai thể làm được? Ma xét thấy hiện thời các đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật thì kẻ tại gia chẳng thể hành Thập Thiện, kẻ xuất gia chẳng thể hành Sa Di Luật Nghi. Ma thể vui sướng đến chết, chẳng phải lo âu nào. Thật sự một hai người, đương nhiên ma vẫn lòng đố kỵ, nhưng người [thật sự xuất gia thọ giới] rất ít, Ma chẳng bận tâm. Nếu nhiều người, ma sẽ lo ngại. Khi rất ít người [thật sự xuất gia thọ giới], người cùng một tâm, tâm cùng một này, đương nhiên ma chẳng bận lòng! thế, chúng ta chớ nên chẳng biết điều này! Chúng tôi giới thiệu ba ý nghĩa của tỳ-kheo đến đây.

Chúng ta học những văn tự này, trí huệ bèn mở mang, chúng ta nên học theo cách nào? Phải biết tận hết sức tránh những chướng ngại trên đường Bồ Đề ư? Chướng ngại tuyệt đối nhất định phải có, quý vị thấy đó: Quý vị thật sự muốn tu đạo, Lục Dục Thiên chẳng dung tha, sẽ luôn chướng nạn quý vị. Quý vị thật sự thành công thì thưa quý vị, Lục Dục Thiên đại thiện tri thức. sao? Ông ta khảo đảo, thử thách quý vị mỗi ngày, kết quả quý vị vượt qua được, ông ta sẽ đảnh lễ quý vị, tôn quý vị làm thầy, hộ trì pháp của quý vị, biến thành thần hộ pháp. Ông ta người tốt, chẳng phải kẻ xấu. Quý vị không vượt qua được, không vượt qua được sẽ phải trở lại, ông ta bèn vùi dập quý vị. thế, [những kẻ thử thách, chướng ngại ta] đều Phật, Bồ Tát, thiện tri thức. Hãy suy nghĩ: Hiện thời, chẳng phải quý vị thể thành tựu hay không đều cậy vào những kẻ làm phiền, thử thách quý vị đó ư? Không họ, làm sao chúng ta có thể vượt lên cao hơn được? Sau mỗi lần chướng nạn, chắc chắn sẽ được nâng cao hơn với một mức độ lớn, bất luận trí huệ, hay phước báo, thảy đều được nâng cao. Đây kinh nghiệm của chúng tôi trong gần sáu mươi năm học tập, kinh nghiệm này cùng quý báu.

Chúng ta lại xem đoạn tiếp theo, giải thích chữ Đại, trước chữ tỳ-kheo thêm một chữ Đại. Đại giả, Phạn ngữ vi Ma Ha (Đại, tiếng Phạn Ma Ha). Đây chữ dịch âm trong kinh Phật, tiếng Phạn Ma Ha, tiếng Hán Đại. cụ hữu tam nghĩa, [nghĩa là] ba ý nghĩa Đại, Đa Thắng (thù thắng, siêu thắng). Đại giả, Di Đà Sớ Sao vân, thiên vương đại nhân sở cộng kính ngưỡng, phi tiểu đức dã, danh Đại (Đại như sách Di Đà Sớ Sao giảng:Thiên vương đại nhân đều cùng kính ngưỡng, chẳng phải kẻ đức nhỏ, nên gọi Đại). Tỳ-kheo trì giới, tu định, bậc đại đức, do Giới đắc Định. Nếu quý vị chẳng trì giới, tâm tán loạn, rất nhiều vọng tưởng, những vị thiên vương bậc đại nhân chẳng tôn kính quý vị. Quý vị thật sự trì giới, tâm sẽ thanh tịnh, tâm thanh tịnh định, những thiên vương đại nhân thấy quý vị mạnh mẽ hơn họ, họ chẳng bằng quý vị, lẽ nào chẳng tôn kính quý vị? Giới phải thực hiện từ nơi đâu? Quý vị chớ nên không biết điều này, làm từ Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên. Một trăm mười ba chuyện trong Đệ Tử Quy làm được hay chăng? Thật sự làm. Một trăm chín mươi lăm chuyện trong Cảm Ứng Thiên quả báo thiện ác, khởi tâm, động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, quý vị thể tương ứng [với những chuyện ấy], quý vị thiện, thể đoạn trừ ác. Quý vị đại đức, chẳng phải tiểu đức. Người trong thế gian hiện thời chẳng tôn trọng quý vị, nhưng thiên địa quỷ thần tôn kính, ủng hộ quý vị, họ nhìn thấy, con người chẳng nhìn thấy. Người thế gian thật sự học vấn, đức hạnh sẽ nhìn thấy dáng vẻ của quý vị khác hẳn. Huống hồ những vị này đệ tử Phật, mỗi ngày học tập giáo huấn của đức Phật. Chư vị nhất định phải nhớ, học tập, chú trọng tại tập, tập thực hiện. Những quý vị đã học nếu làm không được, chỉ học, không tập, sẽ biến thành gì? Biến thành học thuật, biến thành Phật học. Học rồi làm được, đấy học Phật, người ấy giống hệt Thích Ca Mâu Ni Phật, thầy tấm gương tốt nhất cho chúng ta, thật sự học được. Tịnh Ảnh, trong phần trước đã giới thiệu Tịnh Ảnh Sớ, trong Tịnh Ảnh Sớ nói: Khoáng bị cao đức, quá cận học (Ðức cao quý mênh mông hơn hẳn những kẻ cận học khác), quá vượt hơn, cố danh vi Đại (nên gọi Đại). Đức cao, học rộng, Ngài học nhiều thứ lắm. Đức cao gì? Những Ngài đã học đều làm được, làm được, đức bèn cao. Học rất nhiều, đấy học phú (học rộng). Học rộng nhưng chẳng làm được, tức học vấn rộng rãi, nhưng đức chẳng cao, không được rồi! Đó học giả (scholar), hiện thời gọi học giả chuyên gia (expert), chẳng thể gọi thánh hiền. Người thật sự làm được thì thánh hiền. Làm được phân nửa hiền nhân; thảy đều thể làm được thì thánh nhân. Đấy ý nghĩa của chữ Đại.

Lại nói đến Đa, Đa giả, nội điển ngoại tịch, bất bác thông, phi quả giải dã, danh Đa(Ða nội điển, ngoại tịch, không sách vở nào chẳng thông suốt rộng rãi, chẳng phải kẻ hiểu biết ít ỏi, nên gọi Ða). Điều này nói về quảng học đa văn. Nội điển điển tịch nhà Phật, giáo huấn của Phật, Bồ Tát. Ngoại tịch trừ Phật pháp ra, tất cả tôn giáo, tất cả học thuật, không Ngài chẳng thông đạt. sao Ngài thông đạt? Trong quá khứ, tổ đại đức Trung Quốc đã bảo: Một kinh thông, hết thảy các kinh đều thông, một môn thông, môn nào cũng đều thông, sao? Thông gì? Kiến tánh thông, chưa kiến tánh sẽ chẳng thông. sao thể kiến tánh? Hết thảy các pháp chẳng lìa tự tánh, hết thảy tất cả các pháp thế gian xuất thế gian, thiện pháp, ác pháp, toàn bộ đều từ tự tánh lưu xuất, vấn đề quý vị thật sự hiểu. Từ một pháp, quý vị tham cứu, chớ nên nghiên cứu. Nghiên cứu gì? Quý vị dùng tâm ý thức thì nghiên cứu, lìa tâm ý thức tham cứu. Tham cứu mới thể kiến tánh, nghiên cứu chẳng thể kiến tánh. Do vậy, khoa học gia thể phát hiện A Lại Da, nhưng chẳng thể kiến tánh, sao? Kiến tánh nhất định phải lìa tâm ý thức, tức chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước bèn kiến tánh. Khoa học gia vẫn phân biệt, vẫn chấp trước, vẫn khởi tâm động niệm; thế, những thứ họ học được tri thức, chẳng phải trí huệ. Buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống sẽtrí huệ, chẳng phải tri thức.

      Trí huệ một thông, hết thảy đều thông, Huệ Năng đại một tấm gương rất hay, Ngài chưa hề đi học, nhưng quý vị hỏi Ngài về pháp thế gian lẫn xuất thế gian, không Ngài chẳng thông. Thời ấy, không ai hỏi những vấn đề khoa học, nhưng nếu hỏi Ngài, Ngài sẽ trả lời, hiểu toàn bộ, không chẳng hiểu! Xưa nay, trong, ngoài nước, khoa học hiện thời gọi thế giới thế giới vi mô, không Ngài chẳng hiểu. Chưa hề tiếp xúc, nhưng chỉ cần tiếp xúc bèn thông đạt, vừa nhìn hay nghe liền hiểu toàn bộ, một thông, hết thảy đều thông, đấy Đa! Đa do tinh chuyên có. Văn tự Trung Quốc rất hay khéo, tinh thông, chẳng tinh sẽ chẳng thông. Học dẫu nhiều nhưng không tinh, nên chẳng thông. Học một thứ tinh, sẽ thông suốt toàn bộ. ngoại quốc, không tìm được văn tự như Trung Quốc, đấy phù hiệu trí huệ. Văn tự Trung Quốc quả thật trí huệ, chỉ dạy quý vị. thế, tổ tiên không mật gì, do họ không tâm đố kỵ, luôn mong mỏi con cháu thể hơn họ. thể vượt hơn hay chăng? Thưa quý vị, chắc chắn chẳng thể, họ bình đẳng, quý vị đạt đến trình độ ấy, sẽ bình đẳng với họ, chẳng cách nào vượt hơn. Giống như một khối cầu, quý vị thông suốt toàn bộ, trên khối cầu chẳng thể nhô ra chút nào, cũng chẳng thể hụt đi chỗ nào. thế, Phật Phật đạo đồng do đạo này, bình đẳng,thanh tịnh, bình đẳng, giác, quý vị cũng trở về thanh tịnh, bình đẳng, giác. Do vậy, hãy chú ý hai chữ tinh thông, hai chữ ấy ý vị cùng. A! Ngày hôm nay thời gian đã hết rồi, chúng ta học tới đây.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 43 hết

 



[1] Vương Duy (701-761), tự Ma Cật, quê huyện Kỳ, tỉnh Sơn Tây. Ông thi gia họa gia nổi tiếng đời Đường, ngoại hiệu Thi Phật. Ông tinh thông Phật học, đặc biệt sùng mộ kinh Duy Ma Cật nên lấy hiệu Ma Cật. Ông đỗ Tiến năm Khai Nguyên thứ chín (721), làm quan đến chức Đại Nhạc Thừa. Phong cách vẽ tranh sơn thủy theo lối thủy mặc của ông rất được các thiền thời ấy ưa chuộng phỏng theo.

[2] Nguyên vănthư viện(書院). Đây chữ dùng để dịch chữ Academy của tiếng Anh.Thư viện” theo nghĩa nguyên thủy một cấu giáo dục trong hệ thống quan học (giáo học do chính quyền chỉ đạo), không phải thư viện (library) như trong tiếng Việt (thư viện theo nghĩa tiếng Việt sẽ được gọi đồ thư quántrong tiếng Hán). cấu này bắt nguồn từ thời Khai Nguyên nhà Đường. Về sau thư viện trở thành một hệ thống trường chuyên khoa giảng giải theo một trường phái triết học nào đó, như Học thư viện thời Tống chẳng hạn. Khi giáo dục được tổ chức theo khuôn mẫu Tây phương, người Hoa liền dùng ngay chữ Thư Viện để dịch chữ Academy hoặc College trong hệ thống đại học của Anh, hoặc để dịch chữ School trong hệ thống đại học của Mỹ.

[3] Xứ trưởng tiếng gọi chung những công chức cao cấp, thông thường các trưởng ban, trưởng phòng, hoặc chánh sự vụ trong một bộ hoặc một sở tại Đài Loan.

[4] Tứ hợp viện (còn gọi Tứ Phòng) một kiểu xây nhà truyền thống, gồm bốn dãy nhà xây vây kín theo hình chữ Khẩu (), bao quanh một cái sân giữa. Nếu giữa sân không dãy nhà nào thì gọi nhị tấn nhất viện (hai lớp nhà, một sân), nếu chính sân xây một dãy nhà ngăn sân làm đôi (tức chữ Nhật ) thì gọi tam tấn nhị viện” (ba dãy nhà, hai sân) v.v...

[5] Ở đây, Hòa Thượng nói lầm, năm 2006 phải là Phật lịch 2550.

[6] Cụ Triệu Phác Sơ và Hòa Thượng đều là người tỉnh An Huy, cụ Triệu quê ở huyện Thái Hồ, còn Hòa Thượng quê ở huyện Lư Giang.

[7] Đây là các dân tộc được chính quyền Hoa Lục công nhận, bao gồm: Hán, Tráng (người Choang), Mãn, Hổi, Miêu (H’mong), Duy Ngô Nhĩ (Uigur), Thổ Gia (Bizika), Di (Nisu), Mông Cổ, Tây Tạng, Bố Y (Buxqyaix), Đồng (Gaem), Dao, Triều Tiên (Chosen), Bạch (Baipho), Cáp Nê (Haqniq), Cáp Tát Khắc (Kazak), Lê, Thái, Xá, Lật Túc (Lisaw), Ngật Lão (Kláo), Đông Hương (Sarta), Cao Sơn, Lạp Hỗ (Lad Hull), Thủy, Ngõa, Nạp Tây, Khương, Thổ, Mộc Lão, Tích Bá, Kha Nhĩ Khắc Tư (Kirgiz), Đạt Oát Nhĩ (Daur), Cảnh Pha, Mao Nam, Tát Lạp (Salar), Bố Lang (Blang), Tháp Cát Khắc (Tajik), A Xương, Phổ Mễ, Ngạc Ôn Khắc (Evenki), Nộ, Kinh, Cơ Nặc, Đức Ngang, Bảo An, Nga, Dũ Cố (Yughur), Ô Tư Biệt Khắc (Uzbek), Môn Ba (Monpa), Ngạc Luân Xuân (Oronco, Oroqen), Độc Long, Tháp Tháp Nhĩ (Tatar), Hách Triết (Nanaitsr), và Lạc Ba (Lho pa). Đông nhất là dân Hán (hơn một tỷ) và ít nhất là Lạc Ba (chỉ có 2.965 người). Nếu nói chi tiết thì tại Đài Loan còn có một số các sắc dân thiểu số nữa, ngoài tộc Cao Sơn ra, nhưng chính quyền Hoa Lục không công nhận, như Pangcah Amis, Paiwan, Atayal, Bunun, Rukai v.v...

[8] Đại Bảo Tích Kinh Luận do ngài An Huệ soạn, được ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch sang tiếng Hán vào thời Bắc Ngụy, gồm bốn quyển. Tuy mang tựa đề Đại Bảo Tích Kinh Luận, phần này chỉ nhằm giải thích hội bốn mươi ba trong kinh Bảo Tích (tức hội Phổ Minh Bồ Tát). Luận này nhằm giải thích danh xưng Bảo Tích, các thứ hạnh chánh hạnh của hàng B Tát.

[9] Hương Cảng là một hòn đảo nằm đối diện với bán đảo Cửu Long, cách nhau bởi eo biển Lý Ngư Môn. Đặc khu Hồng Kông gồm ba khu Cửu Long, Tân Giới và đảo Hương Cảng. Khu Tân Giới do chính quyền nhà Thanh cho Anh thuê thêm nhằm mở rộng địa giới đặc khu Hương Cảng, nằm từ phía Bắc giới tuyến bán đảo Cửu Long đến bờ Nam sông Thâm Quyến và 233 hòn đảo lân cận.

[10] Dương phía Nam của núi, nhưng đối với sông thì Dương lại phía Bắc. Bắc sơn chi dương (tức phía Nam của phía Bắc núi). Nói cho hơn phía Bắc núi này chót núi, nhưng vách phía Nam của chót núi phía Bắc ấy.

[11] Khái niệm chia nước thành tỉnh chỉ thật sự xuất hiện từ đời Minh trở đi. Trước đó, đất nước được chia thành quận, huyện, châu, hành châu, đạo, đô hộ phủ, lộ. Thoạt đầu, Tỉnh nghĩa một quan công vụ trung ương, chẳng hạn Thượng Thư Tỉnh, Trung Thư Tỉnh, Môn Hạ Tỉnh. Đến đời Nguyên, mới thành lập những cấp hành chánh địa phương gọi Hành Trung Thư Tỉnh (gọi tắt Hành Tỉnh) trực thuộc Trung Thư Tỉnh, nhưng toàn quyền xử sự vụ tại địa phương. Đến đời Minh, chữ Hành trong Hành Tỉnh bị lược bỏ, chỉ gọi Tỉnh, đồng thời chế độ Tam Tỉnh (Thượng Thư Tỉnh, Trung Thư Tỉnh, Môn Hạ Tỉnh) Trung Ương bị phế trừ, Tỉnh các địa phương trở thành quan hành chính độc lập, tuy vẫn phải nghe theo lệnh trung ương, nhưng quyền hạn rộng rãi rất nhiều, khu vực quản hạt của Hành Tỉnh; do đó cũng được gọi Tỉnh. Từ đó, cả nước được chia thành mười sáu tỉnh. Huyện trở thành đơn vị trực thuộc tỉnh. Đến đời Thanh lại chia nhỏ hơn thành năm mươi hai tỉnh.

[12] Mạc liêu: Phụ tá, cộng sự của các trưởng quan.

[13] Khấu một chức quan được thiết lập từ thời Tây Châu, địa vị kém Tam Công (Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo), ngang hàng với Lục Khanh (Thái Tể, Thái Tông, Thái Sử, Thái Chúc, Thái Sĩ, Thái Bốc). Tư Khấu cùng với Mã, Không, Sĩ, Đồ hợp thành Ngũ Quan. Chức Khấu chuyên chưởng quản nhà giam, lo việc kiểm soát trị an, an ninh nội chánh, kể cả pháp, tương đương với chức Hình Bộ Thượng Thư sau này. Tại các nước chư hầu như Sở, Trần v.v... chức quan này được gọi Bại.

[14] Đổng Trọng Thư (179-104 trước Công Nguyên), một nhà tưởng, triết gia, chính trị gia, một nhà giáo dục, quê Quảng Xuyên (nay huyện Táo Cường, tỉnh Bắc), tinh thông Xuân Thu Công Dương Truyện, bậc đại về Kim Văn Kinh, nổi danh ngang hàng với Khổng An Quốc. Từ bé, ông nổi tiếng chăm học, do tinh thông Công Dương Truyện nên về sau được Hán Cảnh Đế phong tặng danh hiệu Bác Sĩ. Khi Hán Đế hạ chiếu cầu hiền, bài đối sách (sớ trả lời) của ông chủ trương tôn sùng Khổng học, biến Khổng học thành tưởng chỉ đạo chính thống, áp dụng phương hướng tiền đức, hậu hình (trước hết dùng đức để cảm hóa, rồi mới dùng đến hình phạt) rất được Vũ Đế tán thưởng. Ông cũng đề xướng trung ương tập quyền, hình thành tưởng đế chế.

[15] Lục Quần tỳ-kheo (sad-vargīka-bhiksu) là từ ngữ chỉ chung sáu ác tỳ-kheo thường cấu kết kéo bè kéo đảng với nhau, chẳng tuân giữ luật nghi, làm nhiều điều ác. Phần lớn những giới luật được chế định nhằm ngăn ngừa những lỗi ác do họ vi phạm. Tên họ là Nan Đà (Nanda), Bạt Nan Đà (Upananda), Ca Lưu Đà Di (Kālodāyin hoặc Udāyin), Xiển Na (Chanda), A Thuyết Ca (Asvaka), Phất Na Bạt (Punarvasu).